TCCS – Đường Hồ Chí Minh trên biển là tuyến vận tải chiến lược nối liền hậu phương miền Bắc với tiền tuyến miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sáu mươi năm đã trôi qua (1961 – 2021), nhưng những kỳ tích năm xưa về tuyến đường huyền thoại trên biển vẫn là biểu tượng của sức mạnh đại đoàn kết và khát vọng độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc của dân tộc Việt Nam.
Bối cảnh lịch sử và quyết định mở Đường Hồ Chí Minh trên biển
Năm 1954, với thắng lợi vang dội của ta tại Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, đế quốc Mỹ đã thất bại trong âm mưu can thiệp, thông qua viện trợ cho thực dân Pháp để kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược ở Đông Dương. Chúng ráo riết thực hiện âm mưu lập chính phủ bù nhìn, thi hành chính sách xâm lược và độc tài hiếu chiến, bóp nghẹt cách mạng miền Nam, khủng bố, đàn áp nhân dân, chia cắt lâu dài miền Nam, đồng thời tuyên tuyền “Bắc tiến”, “Lấp sông Bến Hải”…
Đứng trước tình hình khó khăn, tổn thất của nhân dân và cách mạng miền Nam, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II, năm 1959, chủ trương chuyển hướng chiến lược cách mạng miền Nam từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài chống đế quốc Mỹ xâm lược. Hội nghị xác định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới là “giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Nghị quyết xác định con đường cách mạng miền Nam chỉ có thể là “con đường cách mạng bạo lực”. Đồng thời, Đảng ta cũng xác định, miền Bắc xã hội chủ nghĩa là cơ sở vững chắc của phong trào cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam; là hậu phương lớn chi viện cho miền Nam đánh Mỹ, thực hiện mục tiêu chung thống nhất nước nhà. Dưới ánh sáng của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 15 khóa II, nhân dân miền Nam đã nhất tề đứng lên quyết chiến đấu với kẻ thù. Tình hình trên đặt ra yêu cầu về vũ khí, trang bị quân sự cho nhân dân, các lực lượng vũ trang ở miền Nam trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.
Thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị, tháng 5-1959, Tổng Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Phòng Nghiên cứu hoạt động chi viện quân sự cho miền Nam. Ngày 19-5-1959, “Đoàn công tác quân sự đặc biệt” (đơn vị tiền thân của Đoàn 559) được thành lập. Ngày 1-6-1959, Tiểu đoàn 301 trực thuộc Đoàn 559 ra đời, có nhiệm vụ mở tuyến vận tải xuyên Trường Sơn để chi viện vũ khí, trang bị, lực lượng cho chiến trường miền Nam, trước hết là vận chuyển gấp một số hàng quân sự theo yêu cầu cấp bách của Khu V. Tuy nhiên, đối với các tỉnh vùng duyên hải miền Trung và Nam Bộ, việc chi viện bằng đường bộ vô cùng khó khăn và không hiệu quả. Do đó, Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy chủ trương nhanh chóng mở tuyến đường vận chuyển chiến lược trên Biển Đông, dù biết sẽ rất gian nan, nguy hiểm, nhưng có ưu thế về tốc độ, thời gian, đáp ứng kịp thời yêu cầu của chiến trường.
Tháng 7-1959, Tiểu đoàn vận tải thuỷ 603 được thành lập, gồm 107 cán bộ, chiến sĩ, có nhiệm vụ nghiên cứu tìm phương thức vận chuyển vũ khí bằng đường biển chi viện cho miền Nam. Cuối năm 1959, Tiểu đoàn 603 tổ chức chuyến thuyền gỗ vượt biển đầu tiên mang theo 5 tấn vũ khí và thuốc chữa bệnh cho chiến trường Khu V nhưng không thành công. Tiếp tục nghiên cứu, rút kinh nghiệm, củng cố quyết tâm, đến ngày 23-10-1961, Bộ Tổng Tư lệnh ra Quyết định số 97/QP, thành lập Đoàn 759 vận tải thủy, lực lượng ban đầu gồm 38 cán bộ, chiến sĩ, có nhiệm vụ mua sắm phương tiện, vận chuyển tiếp tế cho chiến trường miền Nam bằng đường biển. Chuyến tàu đầu tiên thành công đánh dấu sự hình thành của con đường này là chở 28,213 tấn vũ khí trên chiếc tàu gỗ mang tên “Phương Đông 1”, xuất phát từ bến Vạn Sét, Đồ Sơn (thành phố Hải Phòng) đêm ngày 11-10-1962, cập bến Vàm Lũng (tỉnh Cà Mau) sáng ngày 19-10-1962. Từ đây, các chiến trường ven biển miền Nam, cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ nhận được sự chi viện trực tiếp của miền Bắc, tạo nên sức mạnh và niềm tin to lớn cho các lực lượng vũ trang trên chiến trường.
Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã chứng minh việc triển khai tuyến vận tải biển chi viện cách mạng miền Nam là một quyết định đúng đắn mang tầm nhìn chiến lược của Bộ Chính trị, mà trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh, mở ra hướng chi viện mới của miền Bắc đến với các chiến trường xa ở miền Nam, đầy táo bạo, bí mật, bất ngờ và hiệu quả. Cùng với Đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn, sự xuất hiện của những con tàu đi trên biển “không dấu, không số” làm công tác vận tải giúp hình thành hai tuyến vận tải chiến lược trên biển và trên bộ song song hoạt động, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau, tạo nên một hệ thống vận tải tương đối hoàn chỉnh, nối liền hậu phương lớn miền Bắc với tuyền tuyến lớn miền Nam, chi viện kịp thời, hiệu quả sức người, sức của cho chiến trường miền Nam; là biểu tượng cho ý chí quyết chiến, quyết thắng, tinh thần kiên cường, sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; thể hiện ý chí khát vọng độc lập tự do, thống nhất đất nước của toàn dân tộc.
Đường Hồ Chí Minh trên biển – kỳ tích lịch sử, huyền thoại sống động của sức sáng tạo con người Việt Nam và khát vọng thống nhất non sông
Đế quốc Mỹ và tay sai dùng mọi thủ đoạn với các loại vũ khí, thiết bị tối tân, hiện đại nhất để ngăn chặn, đánh phá, hòng hủy diệt, cắt đứt tuyến đường tiếp viện của miền Bắc cho miền Nam, nhưng Bến K15, Đồ Sơn (thành phố Hải Phòng), nơi xuất phát của những chuyến tàu không số, luôn đứng vững trước các đợt cường kích, phong tỏa của kẻ thù trong suốt quá trình hoạt động của tuyến đường. Các bến, bãi tiếp nhận vũ khí được bí mật xây dựng ở một số tỉnh ven biển Nam Bộ và Nam Trung Bộ, tiêu biểu là: Vàm Lũng, Bồ Đề, Bến Cũ, Rạch Kiến Vàng, Cái Bầu (thuộc các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu); Hố Lồng Đèn (tỉnh Kiên Giang); Ba Động, Khâu Lầu, La Ghi, Láng Nước, Rạch Cờ, Hố Tàu (tỉnh Trà Vinh); Vàm Khâu Băng, Cồn Rừng, Eo Lói, Cồn Tra, Cồn Điệp, Bình Đại (tỉnh Bến Tre); Lộc An (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), Hòn Hèo (tỉnh Khánh Hòa); Vũng Rô (tỉnh Phú Yên); Lộ Giao (tỉnh Bình Định); Đạm Thủy (tỉnh Quảng Ngãi); Hố Chuối, Bình Đào (tỉnh Quảng Nam)…. Công tác chỉ huy, hiệp đồng tác chiến được tiến hành chặt chẽ giữa lực lượng bốc dỡ, vũ trang chiến đấu, cứu thương, thông tin vô tuyến điện và các cơ quan tham mưu, chính trị, kỹ thuật, hậu cần…
Để giữ bí mật và bảo đảm vận hành thông suốt, ta sử dụng các loại tàu nhỏ ngụy trang giống như tàu đánh cá của ngư dân. Phương thức vận chuyển linh hoạt, sáng tạo: Địch phong tỏa đường trong, ta đi đường ngoài; địch phong tỏa biển gần, ta đi biển xa; địch phong tỏa theo tuyến biển dài, ta đi phân đoạn; khéo léo kết hợp với cải dạng, ngụy trang nghi binh, đối sách khôn khéo, táo bạo, bí mật; nhạy bén trong việc lựa chọn bến, bãi, lợi dụng địa hình, thủy triều, thời tiết…
Từ những con tàu gỗ ban đầu, hoạt động ven bờ, ta dần sử dụng những đội tàu vỏ sắt có tải trọng hàng trăm tấn, hoạt động xa bờ, dài ngày, đi theo đường hàng hải quốc tế như những con tàu viễn dương hiện đại, rồi ẩn mình giữa những tàu, thuyền của ngư dân hoạt động ở ven biển để cập bến. Các tàu xóa hết nhãn mác, tên tàu, số tàu, khi đến vùng biển nào thì cải trang thành tàu đánh cá hoặc tàu buôn, ghi tên tàu, mang số tàu phù hợp với vùng biển địa phương đó. Hồ sơ, hải trình, thông tin…, ngay sau mỗi chuyến đi buộc phải hủy toàn bộ, để giữ bí mật tuyệt đối.
Cán bộ, chiến sĩ Đoàn tàu không số luôn khắc ghi tinh thần cảm tử “Vì miền Nam ruột thịt”. Để giữ bí mật tuyệt đối, mọi người không tiếp xúc với người thân, bạn bè trước khi lên đường. Có người ra Bắc tập kết, sau cả chục năm khi đưa hàng trở lại quê hương, do yêu cầu tuyệt đối giữ bí mật mà đã không lên bờ về thăm gia đình. Có người bất ngờ thấy vợ trong đoàn dân công ra chuyển vũ khí, đành xuống khoang tàu lánh mặt…
Mỗi con tàu đều được gắn thuốc nổ ở đầu và đuôi tàu. Trong trường hợp cụ thể khi bị địch phát hiện, toàn bộ số thuốc nổ này sẽ được kích nổ, thà hy sinh chứ không để tàu rơi vào tay địch, không để lộ tuyến vận tải chiến lược này. Đã có hàng trăm cán bộ, chiến sĩ, dân quân, du kích anh dũng hy sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đặc biệt này.
Từ năm 1962 đến đầu năm 1965, cán bộ, chiến sĩ Đoàn 759, sau là Đoàn 125 đã thực hiện thành công 90 chuyến, chở 5.024,428 tấn hàng hóa, vũ khí cho chiến trường.
Tháng 2-1965, sau khi tàu C143 bị địch phát hiện tại vịnh Vũng Rô (Phú Yên), chúng tăng cường hoạt động tuần tiễu ngăn chặn, chống xâm nhập. Đoàn 125 đã sáng tạo nghiên cứu ra cách vận chuyển mới, chuyển hướng hoạt động, sử dụng các đội tàu đi theo đường hàng hải quốc tế và bí mật đưa hàng vào các bến tiếp nhận. Đến tháng 2-1968, do sự ngăn chặn, chống xâm nhập của địch ngày càng gay gắt, để tránh tổn thất, Đường Hồ Chí Minh trên biển được lệnh tạm ngừng hoạt động. Tuy vậy, trong những năm 1965 – 1968, Đoàn 125 đã tổ chức 27 chuyến tàu, giao được hơn 400 tấn hàng quân sự cho các chiến trường.
Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, cùng với việc vận chuyển hàng hóa, vũ khí, đạn dược vào các vùng biển giáp vùng giới tuyến, sau đó vận chuyển bằng đường bộ (do Đoàn 559 đảm nhận), Đoàn 125 còn nghiên cứu, sáng tạo tổ chức vận chuyển hàng viện trợ quân sự của các nước xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam bằng tàu biển quốc tế, quá cảnh qua cảng Sihanoukville (Campuchia) được nhiều tấn hàng hóa và đạn dược. Từ cuối năm 1970, khi tuyến đường vận chuyển qua Campuchia bị cắt đứt, Đoàn 125 tiếp tục nghiên cứu tuyến vận chuyển mới qua Malaysia, Thái Lan để cập tại các bến bãi của miền Tây Nam Bộ. Mặc dù bị phong tỏa, bị siết chặt các tuyến đường vận chuyển trên biển, hòng bóp nghẹt con đường chi viện vũ khí của miền Bắc cho miền Nam, song vượt qua tất cả, Đoàn 125 đã không ngừng sáng tạo, không ngại hy sinh, không ngừng nghiên cứu ra các tuyến đường khác nhau để vận chuyển hàng hóa và vũ khí vào chiến trường miền Nam. Từ cuối năm 1974, tình hình chiến trường miền Nam có nhiều chuyển biến thuận lợi, Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị cho Đoàn 125 vận chuyển vũ khí và bộ đội vào sâu hơn nữa, sát hơn nữa nơi ta mở chiến dịch. Đoàn 125 đã huy động toàn bộ lực lượng thực hiện đợt vận chuyển binh lực đột kích chủ yếu vào chiến trường (mật danh T5) và vận chuyển phục vụ Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử với tinh thần “Thần tốc, táo bạo chở người và vũ khí vào mặt trận”. Trong tháng 3 – 4-1975, Đoàn đã vận chuyển 17.473 cán bộ, chiến sĩ các đơn vị chủ lực vào chiến trường; 40 xe tăng và 7.886 tấn vũ khí, nhiên liệu… góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Cùng với nhiệm vụ vận tải hàng hóa quân sự, kể cả những loại hàng “đặc biệt”, như vũ khí, thiết bị y tế quý hiếm, hóa chất đặc biệt…, Đường Hồ Chí Minh trên biển còn đảm đương nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, đó là đưa đón an toàn tuyệt đối hàng trăm cán bộ cao cấp của Đảng, quân đội và chuyên gia quân sự vào miền Nam, đưa cán bộ từ miền Nam ra miền Bắc để báo cáo Trung ương, nhận chỉ thị mới, kịp thời bổ sung cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy chiến đấu trên chiến trường miền Nam.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước gian khổ, kiên cường của dân tộc ta, Đường Hồ Chí Minh trên biển đã sáng tạo thêm một phương thức vận chuyển mới để tiếp viện hiệu quả, kịp thời cho chiến trường miền Nam. Tuyến đường được thiết lập, cùng với sự sáng tạo, dũng cảm, sẵn sàng hy sinh của Đoàn 759, Đoàn 125 Hải quân nhân dân Việt Nam đã góp phần làm nên thắng lợi của cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân ta, thu non sông về một mối. Sự đóng góp của tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển càng chứng minh tầm quan trọng của biển, đảo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đánh giá về Đường Hồ Chí Minh trên biển, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từng khẳng định: “Năm tháng có thể qua đi, nhưng chiến công anh hùng và sự hy sinh cao cả của các lực lượng mở đường vận tải chiến lược mang tên Bác Hồ kính yêu trên Biển Đông, của những con tàu “Không số” của quân và dân các bến bãi, làm nhiệm vụ chi viện cho cách mạng miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại, sẽ mãi mãi đi vào lịch sử đấu tranh anh dũng của dân tộc Việt Nam”.
Quyết định mở Đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược của Đảng ta, hội tụ cao độ trí thông minh, lòng dũng cảm và sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc. Tuyến vận tải mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành biểu tượng sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu trí, đấu lực với kẻ thù; nơi tỏa sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lòng quả cảm, trí thông minh cùng quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ của dân tộc Việt Nam. Trí tuệ, sức sáng tạo, lòng quả cảm và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đó tiếp tục được phát huy để thực hiện thắng lợi đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc./.
Theo Tạp chí Cộng sản