Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII là kim chỉ nam cho việc triển khai công tác đối ngoại, thể hiện mạnh mẽ tính kế thừa và tinh thần đổi mới tư duy, phù hợp với thực tiễn, cũng như với với thế và lực mới của đất nước.
Tháng 2/2021 vừa qua, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã thành công rực rỡ, thông qua Nghị quyết Đại hội và các văn kiện quan trọng, tổng kết các thành tựu và bài học của nhiệm kỳ qua cũng như 35 năm Đổi mới, đề ra tầm nhìn, mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể của đất nước từ nay đến 2045. Theo đó, chúng ta cần “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đó chính là sự kết tinh khát vọng phát triển ngàn đời của dân tộc mà nay đang có cơ hội hiện thực hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đánh giá toàn diện kết quả công tác, bài học kinh nghiệm của nhiệm kỳ qua. Trong đó, đối ngoại là một trong các lĩnh vực nhận được sự quan tâm cao. Về thành tựu công tác đối ngoại, Đại hội đã đánh giá: “Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục được mở rộng và đi vào chiều sâu, tạo khuôn khổ quan hệ ổn định và bền vững với các đối tác. Chủ động tham gia xây dựng các nguyên tắc, chuẩn mực trong các thể chế đa phương khu vực và toàn cầu; xử lý đúng đắn, hiệu quả quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác khác. Đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân được triển khai đồng bộ và toàn diện.
Tiếp tục hoàn thiện và thực thi có hiệu quả cơ chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại; tăng cường công tác bảo hộ công dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài. Hội nhập quốc tế tiếp tục được triển khai chủ động, tích cực, tạo không gian quan hệ rộng mở, tranh thủ được sự hợp tác, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế. Vị thế, uy tín, vai trò của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới ngày càng được nâng cao”. Công tác đối ngoại đã sát cánh cùng cả hệ thống chính trị và toàn dân thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị lớn trong cả nhiệm kỳ qua.
Tuy nhiên, công tác đối ngoại trong những năm tới sẽ diễn ra trong bối cảnh chiến lược mới. Văn kiện chỉ ra: Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo, cả thách thức và cơ hội đều đan xen, trong đó thách thức lớn hơn. Những chuyển biến của cục diện thế giới và khu vực tác động nhiều mặt tới Việt Nam do chúng ta ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới và khu vực. Nhiệm vụ đối ngoại do đó cũng càng trở nên quan trọng và nặng nề, vừa nhằm thích ứng và ứng phó với bối cảnh thế giới và khu vực biến động mạnh, vừa phục vụ những mục tiêu phát triển chiến lược của đất nước giai đoạn tới.
Trong bối cảnh đó, Đại hội đã khẳng định rõ Việt Nam cần tiếp tục kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa và hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng. Đây là nội dung hết sức quan trọng, xuyên suốt trong đường lối đối ngoại của Đảng thời kỳ Đổi mới. Độc lập tự chủ vừa là mục tiêu, vừa là nền tảng của đối ngoại Việt Nam. Chỉ có độc lập tự chủ, chúng ta mới có thể hội nhập quốc tế thành công, phát huy đầy đủ thế mạnh, phục vụ lợi ích quốc gia-dân tộc, xử lý được các mối quan hệ quốc tế phức tạp trong môi trường đầy bất định, khó lường với nhiều cơ hội và thách thức đan xen như hiện nay.
Văn kiện Đại hội đã khẳng định những điểm nổi bật về phương hướng đối ngoại, đó là:
Một là, “Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”. Đây là bước phát triển rất mới trong tầm nhìn chiến lược của Đảng ta, vừa là sự nhìn nhận vai trò quan trọng của đối ngoại, vừa đặt ra những nhiệm vụ rất nặng nề cho giai đoạn tới. “Vai trò tiên phong của đối ngoại” không chỉ có ngoại giao mà cả quốc phòng, an ninh và các binh chủng khác, trong sự phối hợp liên ngành dưới sự chỉ đạo và quản lý thống nhất của Đảng và Nhà nước. Như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 28 (tháng 8/2013): trong thời bình, công tác đối ngoại sẽ tiếp tục là một mặt trận quan trọng, cùng với quốc phòng – an ninh đóng vai trò tiên phong, góp phần bảo vệ an ninh, độc lập và chủ quyền đất nước.
Hai là, đối ngoại phải “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”. Lợi ích quốc gia – dân tộc đã, đang và sẽ tiếp tục là kim chỉ nam, tiêu chí cao nhất trong triển khai hoạt động đối ngoại. Không những vậy, Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII còn xác định đây là một trong những quan điểm chỉ đạo cao nhất nhằm thực hiện tầm nhìn và định hướng phát triển của đất nước. Đồng thời, Việt Nam không theo chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, hẹp hòi mà thúc đẩy lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.
Ba là, Đại hội nêu rõ nhiệm vụ “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả, vì lợi ích quốc gia – dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia”. Độc lập, tự chủ là cơ sở, tạo ra sức mạnh nội sinh để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. “Hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng” nghĩa là hội nhập đầy đủ trên các lĩnh vực, các tầng nấc khác nhau với mức độ tham gia, đóng góp thực chất hơn, cam kết và đan xen lợi ích cao hơn. Hội nhập quốc tế cũng phải bám sát, gắn chặt và phục vụ trực tiếp nhiệm vụ phục vụ phát triển với việc “tích cực triển khai các cam kết khu vực và quốc tế, lồng ghép với các chiến lược, chính sách, kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế-xã hội”.
Bốn là, tư duy về đối ngoại song phương và đa phương có những bước phát triển mới. Về song phương, chúng ta cần tiếp tục đưa các mối quan hệ đối ngoại song phương đi vào chiều sâu, đồng thời cần “tạo thế đan xen lợi ích” và “tăng độ tin cậy”. Đối ngoại đa phương cần “chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị – kinh tế quốc tế”, và “trong những vấn đề, các cơ chế quan trọng, có tầm chiến lược đối với lợi ích Việt Nam, phù hợp với khả năng và điều kiện cụ thể”. Đây là bước phát triển quan trọng về lý luận và thực tiễn từ Đại hội XII và Chỉ thị 25 của Ban Bí thư (8/8/2018). Điều này phù hợp với thế và lực mới của đất nước cũng như những đòi hỏi thực tiễn mới đối với công tác đối ngoại. Tư duy về không gian và các trọng điểm chiến lược của đất nước cũng được thể hiện rất rõ, đó là các nước láng giềng, khu vực tiểu vùng Mê Công, ASEAN, Châu Á – Thái Bình Dương, các nước lớn và các đối tác quan trọng…
Năm là, đối ngoại được giao trọng trách tham gia cùng quốc phòng, an ninh và cả hệ thống chính trị vào việc bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định của đất nước, giữ nước từ sớm, từ xa. Về an ninh quốc gia, văn kiện nêu rõ “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước”. Về bảo vệ chủ quyền, biển đảo: “Tiếp tục thúc đẩy giải quyết các vấn đề trên biển, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc và Luật biển năm 1982. Củng cố đường biên giới hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển; giải quyết các vấn đề còn tồn tại liên quan đến đường biên giới trên bộ với các nước láng giềng”. Đối ngoại cũng phải “tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu, chiến lược về đối ngoại, không để bị động, bất ngờ”.
Sáu là, văn kiện khẳng định sự quan tâm và quan điểm của Đảng và Nhà nước về cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Văn kiện nêu rõ “Hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hội nhập xã hội nước sở tại. Nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, du học sinh… Tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Làm tốt công tác thông tin tình hình trong nước, giúp đồng bào hướng về Tổ quốc, nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích quốc gia – dân tộc, có chính sách thu hút nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đây sẽ là phương hướng để xây dựng những chủ trương, chính sách nhằm hỗ trợ, tạo thuận lợi cho bà con hội nhập với xã hội sở tại, đồng thời tiếp tục giữ gìn văn hóa, bản sắc dân tộc và đóng góp vào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bảy là, khẳng định điểm mới trong xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”. Tính “toàn diện” thể hiện trên các chủ thể, địa bàn, cả song phương và đa phương, trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, thông tin đối ngoại, công tác về người Việt Nam ở nước ngoài, bảo hộ công dân…, qua đó phát huy hiệu quả sức mạnh của tất cả các binh chủng. Đặc biệt, nhằm phục vụ mục tiêu phát triển của đất nước, ngoại giao sẽ không chỉ triển khai các nhiệm vụ chính trị lớn ở tầm vĩ mô, mà còn phục vụ trực tiếp các địa phương, doanh nghiệp, người dân, tranh thủ mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện để mở rộng địa bàn, thị trường, tranh thủ nguồn ngoại lực cho phát triển của đất nước. Đây sẽ là trọng tâm lớn của công tác đối ngoại những năm tới. Tính “hiện đại” của ngoại giao được thể hiện ở việc xây dựng ngành, phát triển và nâng tầm phương thức triển khai công tác đối ngoại, tổ chức bộ máy, cơ sở hạ tầng, công nghệ và trang thiết bị… đạt trình độ khu vực và vươn tầm quốc tế, qua đó phục vụ tốt mục tiêu phát triển của đất nước.
Tám là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Văn kiện Đại hội XIII đã nêu “Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, tính chuyên nghiệp, hiện đại, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động thích ứng trước chuyển biến của tình hình”. Qua đó nhấn mạnh luận điểm phẩm chất, năng lực của cán bộ đối ngoại là yếu tố quyết định, mang tính đột phá nhằm bảo đảm đáp ứng được các yêu cầu nhiệm vụ ngày một cao hơn trong tình hình mới.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII là kim chỉ nam cho việc triển khai công tác đối ngoại, thể hiện mạnh mẽ tính kế thừa và tinh thần đổi mới tư duy, phù hợp với thực tiễn, cũng như với với thế và lực mới của đất nước. Tới đây, các cơ quan trong lĩnh vực đối ngoại và hội nhập quốc tế sẽ tiếp tục phải làm rõ nội hàm đường lối đối ngoại, tổ chức quán triệt Nghị quyết Đại hội sâu sát đến các cơ sở Đảng ở trong nước và nước ngoài. Chỉ với bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước, sự phối hợp chặt chẽ, đồng lòng nhất trí của toàn hệ thống chính trị và toàn dân, chúng ta mới thực hiện được thắng lợi đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển của đất nước trong những năm tới./.
BTG tổng hợp