Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng (tháng 2-1951) là mốc son đánh dấu sự trưởng thành của Đảng về mọi mặt, đặc biệt là sự phát triển mới trong tư duy lý luận về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, về Đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc, thể hiện ý chí và khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của toàn Đảng, dân tộc Việt Nam về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Từ sau Đại hội II đến tiến trình 35 năm đổi mới đất nước, Đảng ta ngày càng nhận thức sâu sắc, sáng tỏ hơn vấn đề cốt yếu này.
Nhận thức về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tại Đại hội II của Đảng
Đầu năm 1951, những biến đổi mạnh mẽ và sâu sắc của tình hình trong nước và quốc tế đặt ra yêu cầu mới đối với cách mạng Việt Nam, đòi hỏi Đảng phải bổ sung và phát triển đường lối cách mạng và chính sách đối ngoại. Trước yêu cầu của thời kỳ cách mạng mới, Đảng triệu tập Đại hội đại biểu lần thứ II diễn ra từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951. Đại hội đã quyết định những vấn đề quan trọng về xây dựng Đảng, đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, thảo luận và thông qua Chính cương Đảng Lao động Việt Nam, Tuyên ngôn và Điều lệ mới của Đảng; đề ra đường lối, chủ trương đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi hoàn toàn.
Tại Đại hội II, nhận thức của Đảng về mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH) tiếp tục được khẳng định, bổ sung, phát triển, làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận từ thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đây là con đường mà Đảng và nhân dân Việt Nam lựa chọn từ năm 1930, con đường phát triển theo quy luật khách quan của lịch sử xã hội loài người nói chung.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp; yêu cầu bức bách của dân tộc Việt Nam lúc này là phải tìm ra con đường giải quyết một cách triệt để đồng thời hai mâu thuẫn đó nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã làm cho CNXH từ lý luận trở thành hiện thực, mở ra thời đại mới – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên phạm vi thế giới. Vào thời điểm lịch sử ấy, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú, thấm nhuần tri thức lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, đã khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” (1). Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2) được hoạch định tại Hội nghị thành lập Đảng (tháng 2-1930) xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(3). Cương lĩnh khẳng định sự lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc là con đường cách mạng vô sản, gắn kết độc lập dân tộc và CNXH, đưa cách mạng Việt Nam hòa vào dòng chảy chung của cách mạng thế giới. Đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam được tiếp tục phát triển trong Luận cương chính trị của Đảng (tháng 10-1930).
Con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH phản ánh sự lựa chọn khách quan của chính thực tiễn, mang tính đặc thù Việt Nam, đã được Đảng ta khẳng định. Chủ trương chiến lược cách mạng đó được tiếp tục phát triển thêm một bước tại Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5-1941), dưới sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Độc lập dân tộc là điều kiện, là tiền đề giải phóng giai cấp, xã hội và con người để đi tới CNXH. Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là thắng lợi của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, được vận dụng sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người trong thời đại mới. Ngay sau khi giành được độc lập, bắt tay vào xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân, Đảng đã đồng thời lãnh đạo toàn dân tộc tiếp tục sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước. Trước sự trở lại xâm lược của thực dân Pháp (ngày 23-9-1945), Việt Nam chưa có điều kiện trực tiếp tiến lên CNXH. Củng cố và giữ vững nền độc lập dân tộc vừa giành lại được là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và của toàn dân tộc.
Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội II của Đảng (tháng 2-1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam: “Đảng Lao động Việt Nam đoàn kết và lãnh đạo toàn dân kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, tranh lại thống nhất và độc lập hoàn toàn; lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến đến chủ nghĩa xã hội” (4). Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam được Đại hội II thông qua, xác định: “Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội”(5). Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. “Song nhiệm vụ chính trước mắt là hoàn thành giải phóng dân tộc”(6). Cuộc cách mạng nhằm đánh đổ đế quốc và phong kiến, do nhân dân làm động lực và giai cấp công nhân lãnh đạo, là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Khái niệm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chứa đựng cả mục tiêu, lực lượng thực hiện và chế độ chính trị phù hợp để xây dựng CNXH. Đại hội khẳng định con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam: “Con đường tất yếu của nó tiến tới chủ nghĩa xã hội, quyết không thể có một con đường nào khác” (7).
Như vậy, nhận thức luận về thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam lần đầu tiên được Đảng ta nêu ra tại Đại hội này. Con đường cách mạng Việt Nam với 3 nhiệm vụ như trên, trải qua ba giai đoạn: 1 – Giai đoạn tiêu diệt đế quốc xâm lược, giải phóng dân tộc, củng cố Nhà nước dân chủ nhân dân; 2 – Giai đoạn xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, triệt để thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; 3 – Giai đoạn làm xong nhiệm vụ dân chủ nhân dân, tạo đầy đủ điều kiện để tiến lên CNXH. Trong đó, giai đoạn thứ ba là thời kỳ quá độ với nhiệm vụ xây dựng, củng cố và hoàn thiện chế độ dân chủ nhân dân.
Đại hội phân tích, với điều kiện Việt Nam, con đường tiến lên CNXH là một sự nghiệp khó khăn, lâu dài. “Không thể giạng chân ra mà bước một bước khổng lồ để đến ngay chủ nghĩa xã hội. Phải bước nhiều bước, chia thành nhiều độ mà đi” (8). Mỗi giai đoạn có nhiệm vụ trọng tâm, trung tâm. Giải phóng dân tộc, người cày có ruộng, xây dựng cơ sở cho CNXH, ba nhiệm vụ đó không thể cùng làm một lúc. Đại hội chỉ rõ, trong mỗi giai đoạn, kẻ thù và đồng minh của cách mạng có thay đổi,… đường lối cách mạng vì thế mà phải tiếp tục hoàn thiện. Quan niệm giản đơn và “vượt bỏ giai đoạn” cũng như khuynh hướng “từ từ từng bước” đều sai (9).
Báo cáo Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội (Luận cương cách mạng Việt Nam) nêu rõ những cơ sở, tiền đề chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tiền đề tư tưởng, lý luận là Đảng phải nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác – Lê-nin về cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung và những luận điểm về cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một nước thuộc địa, phong kiến lạc hậu nói riêng. Tiền đề kinh tế được xác định là: “Kinh tế dân chủ nhân dân là kinh tế của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội” (10). Tiền đề xã hội là sự đoàn kết của các giai cấp, tầng lớp trong Mặt trận dân tộc thống nhất phấn đấu theo mục tiêu cách mạng do Đảng đề ra. Tiền đề văn hóa tinh thần là xây dựng nền văn hóa dân tộc, khoa học và đại chúng. Những tiền đề, điều kiện cho sự chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa được Đại hội II của Đảng phân tích sâu sắc, định hướng nhiệm vụ mà toàn Đảng, toàn dân phải thực hiện ngay trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, để tạo dựng cơ sở vững chắc cho giai đoạn kế tiếp.
Đường lối đúng đắn mà Đại hội II đề ra chính là sự bổ sung, phát triển Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng; đặc biệt là nhận thức lý luận về lộ trình, bước đi trong giai đoạn quá độ lên CNXH phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam đã được Đảng nêu cụ thể, rõ nét ngay trong hoàn cảnh kháng chiến đang diễn ra ác liệt.
Nhận thức về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn trong tiến trình cách mạng sau đó
Trong thời kỳ 1954 – 1975, Đảng lãnh đạo nhân dân đồng thời thực hiện hai chiến lược: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Độc lập dân tộc và CNXH được thể hiện sinh động và mạnh mẽ trên cả 2 miền Bắc – Nam, tác động, thúc đẩy nhau tạo nguồn xung lực để đưa sự nghiệp thống nhất đất nước đến thành công. Trong suốt cuộc kháng chiến, CNXH không chỉ là phương hướng mà đã trở thành phong trào cách mạng hiện thực trên toàn miền Bắc, đóng vai trò quan trọng quyết định bảo đảm thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong công cuộc giải phóng dân tộc. Cách mạng giải phóng dân tộc tiếp tục có nguồn động lực từ ý chí, khát vọng độc lập, tự do, lòng yêu nước của mỗi người Việt Nam, từ mâu thuẫn nội tại cơ bản vẫn chưa được xóa bỏ là chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam; được bổ sung nguồn động lực từ xã hội xã hội chủ nghĩa đang được xây dựng trên miền Bắc.
Cách mạng giải phóng dân tộc giành thắng lợi, Tổ quốc thống nhất, nhiều tiền đề cho thời kỳ quá độ đã được tạo dựng, các nguồn lực tự nhiên, xã hội, tiềm năng, thế mạnh của các vùng, miền trên cả nước được phát huy; sức mạnh ý chí, tinh thần dân tộc, vị thế, uy tín quốc tế của dân tộc được nâng cao. Các yếu tố đó mở ra điều kiện, tiền đề to lớn cho sự nghiệp xây dựng CNXH trên cả nước, gắn với bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Đó là thắng lợi của chiến lược cách mạng được Đại hội II của Đảng vạch ra. Trong đó, cốt lõi là quan điểm, tiến trình về độc lập dân tộc và CNXH.
Trong giai đoạn 1975 – 1986, sự nghiệp xây dựng CNXH đạt được những thành tựu nhất định; tuy nhiên, những sai lầm trong chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện do chủ quan duy ý chí, nóng vội, thiếu kinh nghiệm, đã làm cho đất nước lâm vào khủng hoảng trầm trọng về kinh tế – xã hội. Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, đã thẳng thắn đánh giá những sai lầm và đề ra đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc, triệt để; đặc biệt là, đổi mới tư duy lý luận, nhận thức đúng đắn về CNXH và những đặc trưng, những quy luật khách quan, những hình thức, bước đi của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, đã mở ra thời kỳ mới của sự nghiệp cách mạng trên con đường đi lên CNXH.
Đại hội VII của Đảng (năm 1991), diễn ra trong bối cảnh tình hình quốc tế phức tạp, mô hình CNXH hiện thực ở các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, phong trào cách mạng thế giới lâm vào khủng hoảng trầm trọng và thoái trào; đất nước sau 15 năm thống nhất, xây dựng CNXH, sau 5 năm thực hiện đường lối đổi mới với nhiều khó khăn, nguy cơ, thách thức. Trước tình hình đó, Đảng ta tiếp tục kiên định con đường cách mạng đã lựa chọn, thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Cương lĩnh năm 1991). Trong Cương lĩnh năm 1991, Đảng đã đúc kết: Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH là bài học xuyên suốt của cách mạng nước ta và khẳng định, đối với nước ta, không còn con đường nào khác ngoài con đường duy nhất đúng đắn là đi lên CNXH để có độc lập dân tộc thực sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng (11).
Tại Đại hội VII, nhiều nội dung lý luận và thực tiễn mới được Đảng nêu ra, trong đó đã xác định những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việtt Nam xây dựng. Đây là một bước phát triển lý luận mới mang tính đột phá. Từ 6 đặc trưng được nêu tại Cương lĩnh năm 1991, Đại hội X của Đảng đã bổ sung, nêu 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam phấn đấu xây dựng. Đây là những phác thảo quan trọng làm cơ sở để Đại hội XI của Đảng thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), xác định xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng gồm 8 đặc trưng: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Tám đặc trưng được xác định trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã phản ánh quan niệm tổng quát về CNXH ở Việt Nam. Đó là thành quả của đổi mới nhận thức về CNXH phù hợp với thực tiễn Việt Nam, là kết hợp hài hòa giữa “cái phổ biến” và “cái đặc thù”, mang sắc thái riêng, được từng bước hiện thực hóa trong cuộc sống.
Trên cơ sở tổng kết 25 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 và đánh giá 30 năm đổi mới (1986 – 2016), Đại hội XII của Đảng (năm 2016) đã bổ sung mối quan hệ lớn thứ chín cần được nghiên cứu làm sáng tỏ cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) bổ sung mối quan hệ lớn thứ mười là mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Đây là một bước tiến mới, quan trọng của Đảng trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, phát triển hệ thống quan điểm lý luận về CNXH ở Việt Nam, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi trong đường lối đổi mới của Đảng ta.
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 35 năm đổi mới chính là thành quả từ việc hiện thực hóa lý luận về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, với những nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Đất nước ta đã vươn mình thoát khỏi vị trí một nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ phát triển thấp trở thành một nước phát triển trung bình; tiềm lực kinh tế liên tục tăng cao; đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao rõ rệt; chính trị – xã hội ổn định; dân chủ ngày càng được mở rộng; chủ quyền quốc gia được bảo vệ vững chắc; vị thế, uy tín quốc tế không ngừng được nâng cao…
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh một đánh giá mới, rất quan trọng về vị thế của đất nước sau 35 năm đổi mới: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (12). Năm 2020, Việt Nam là một trong những quốc gia tăng trưởng cao nhất thế giới (2,91%), quy mô GDP xấp xỉ 345 tỷ USD (gấp 12 lần năm 1985), thu nhập bình quân đầu người đạt trên 3.520 USD (so với 230 USD năm 1985), xuất siêu đạt kỷ lục gần 20 tỷ USD (13). Tỷ lệ nghèo tiếp cận đa chiều năm 2020 khoảng 4,7% (14). Việt Nam xếp thứ 42/131 quốc gia và nền kinh tế về chỉ số đổi mới sáng tạo, tăng 17 bậc so với năm 2016, dẫn đầu nhóm 29 quốc gia có cùng mức thu nhập và đứng thứ 3 khu vực Đông Nam Á.
Đối với tiến trình phát triển đất nước giai đoạn từ nay đến giữa thế kỷ XXI, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo là: “Kiên định và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam trong từng giai đoạn. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên định đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (15). “Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (16). Những mục tiêu to lớn mà Đại hội XIII của Đảng nêu ra cho các mốc thời gian năm 2025, năm 2030 và năm 2045 đòi hỏi quyết tâm chính trị cao; nỗ lực lớn, khát vọng phát triển mạnh mẽ, giải phóng mọi nguồn lực để xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.
Trong tiến trình đổi mới, Đảng nhận diện ngày càng rõ hơn vấn đề độc lập dân tộc và CNXH trước bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Tiến trình đổi mới là sự tiếp tục vận động của những quan niệm mới về CNXH và con đường xây dựng CNXH của Đảng, được hình thành dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa những nhận thức đúng đắn mà Đảng đã tích lũy được trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam (17).
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là mục tiêu, là nội dung nổi bật, xuyên suốt và chủ đạo trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là một trong những nguyên nhân của mọi thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc và mãi là ánh sáng soi đường cho sự nghiệp đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng trong thế kỷ XXI của Đảng và nhân dân Việt Nam./.
Theo Tạp chí Cộng Sản