Vào một buổi sáng mùa thu tháng tám năm 1990, trong đoàn người kéo dài vô tận vào thăm nhà sàn, nơi Bác Hồ kính yêu đã từng sống và làm việc, có hai cha con người Pháp. Người phụ nữ ngoài 50 tuổi, gương mặt sáng, nụ cười tươi tắn, dáng người mảnh mai, đi bên người cha có gương mặt đôn hậu, chất phác. Đó là hai cha con ông Ôbrắc, một gia đình người Pháp có nhiều kỷ niệm sâu sắc với Bác Hồ. Người phụ nữ mảnh mai kia là Êlidabét, người con gái đỡ đầu của Bác Hồ. Đi cùng với dòng người ngắm nhìn vườn cây ao cá, dừng chân hồi lâu bên nhà sàn, ông Ôbrắc bảo với con gái của mình:
– Đây là toàn bộ gia tài của người cha đỡ đầu của con đó, con có hiểu không con?
Những giọt lệ lăn trên má chị. Chẳng lẽ Bác Hồ – người cha đỡ đầu của chị không có một cái gì khác ngoài căn nhà sàn đã đi vào huyền thoại về lối sống trong sáng, giản dị, vườn cây, ao cá và thiên nhiên xanh ngắt quanh mình! Điều khó tin nhưng có thật. Mới đó mà đã 54 năm. Biết bao kỷ niệm về Bác Hồ kính yêu không bao giờ phai mờ, nhạt nhoà trong ký ức của mỗi thành viên trong gia đình chị. Nhìn những em bé như bầy chim non vào Lăng viếng Người, chị càng hiểu sâu sắc câu nói không chỉ ở Việt Nam, mà ở khắp mọi nơi trên trái đất, nơi Bác Hồ đã từng đến, ai ai cũng thuộc:
“Ai yêu nhi đồng bằng Bác Hồ Chí Minh”.
… Ngày ấy, khi chị mới ra đời trong một nhà hộ sinh ở một làng thuộc ngoại ô Pari. Lúc bấy giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đang có mặt trên đất Pháp với tư cách là một thượng khách của Chính phủ Pháp. Báo chí xuất bản ở Thủ đô Pari hoa 1ệ đều trang trọng in trên đầu trang nhất bức chân dung của Bác Hồ với những hàng tít lớn trang trọng.
Hội nghị Phôngtennơblô đang họp, Bác Hồ là thường khách, tâm trí Người luôn hướng tới việc giành lại nền hoà bình, độc lập cho dân tộc, vấn đề Nam Bộ “là máu thịt của Việt Nam”. Ở trong toà lâu đài sang trọng, Bác Hồ cảm thấy không thoải mái vì không có vườn cây, thiếu hoa lá, thiên nhiên. Khi ông Ôbrắc đề nghị Bác đến ở tại ngôi nhà cổ kính của ông ở ngoại vi Pari, Bác Hồ đã nhận lời dọn đến ở 6 tuần lễ.
Nơi đây, cứ chiều chiều sau giờ hội đàm, gặp gỡ với các chính khách, Bác Hồ thường dắt cháu Giăng Pie, 7 tuổi, con trai đầu lòng của ông bà Ôbrắc chủ nhà, đi dạo chơi khắp làng, thăm hỏi đời sống của bà con lao động, nói chuyện với ông lão trồng hoa, và đùa với các em bé vùng ngoại ô. Có buổi trưa, ông Ôbrắc còn thấy Bác Hồ đang cùng con trai ông, Giăng Pie nghỉ trưa thanh thản trên bãi cỏ trong vườn.
Chính trong dịp này, vào này 15-8-1946, gia đình ông Ôbrắc đón một tin vui mới: cô con gái út vừa chào đời. Được tin này, Bác Hồ ngồi trên xe có hộ tống đến tận nhà hộ sinh chúc mừng bà Ôbrắc và cháu bé mới sinh. Bác Hồ đặt tên cho cháu bé là Babét và nhận cháu làm con gái đỡ đầu của Người.
Từ ngày xa Pari, xa vùng ngoại vi Pari trở về nước, dù bận trăm công ngàn việc, lãnh đạo nhân dân Việt Nam trong công cuộc trường kỳ kháng chiến và những năm hoà bình ở miền Bắc cũng như cuộc đấu tranh chống Mỹ giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Bác Hồ vẫn luôn dành tình cảm của mình cho con gái đỡ đầu Babét. Tháng 6-1967, ông Ôbrắc được Hội đồng các nhà bác học thế giới họp ở Pari nhờ chuyển đến Chủ tịch Hồ Chí Minh một bức thông điệp. Gặp lại ông Ôbrắc giữa những ngày Hà Nội đang chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, Bác Hồ rất vui và không quên hỏi thăm đề người con gái đỡ đầu Babét của mình. Ông Ôbrắc chuyển cho Người món quà mà chị Babét nhờ gửi đến cha đỡ đầu: một chiếc hộp vuông bên trong đựng một quả trứng được làm từ thứ đá quý. Theo chị cho biết thì ”quả trứng đó là biểu hiện của sự sống, tương lai và hoàn hảo. Cha đỡ đầu của chị là hiện thân của những điều đó”. Khi chia tay, Bác Hồ gửi một tấm lụa nhờ ông Ôbrắc chuyển cho ”con gái đỡ đầu của tôi để cháu may áo cưới”.
Hàng năm chị Babét vẫn gửi thư đều cho Bác Hồ. Ngày Bác qua đời cũng như toàn thể nhân dân Việt Nam và nhân loại yêu chuộng hoà bình, cả gia đình ông Ôbrắc vô cùng thương tiếc Người. Bao nhiêu kỷ niệm, những món quà Bác gửi cho chị Babét vẫn còn đó: bức ảnh nhỏ của Người, các con vật dễ thương bằng ngà, bằng sứ, tấm lụa Bác gửi để chị may áo cưới… vẫn còn đây. Và lần này, chị được sang thăm đất nước, thăm nơi ở, nơi làm việc của người cha ”đỡ đầu về tinh thần” của mình…
Khi nghe chị thuyết minh nói rằng hai hàng ghế đá và bể cá vàng là nơi Bác Hồ thường dùng để tiếp các khách tí hon, ”khách đặc biệt” của mình, chị Ba bét nước mắt tuôn trào. Chị lặng lẽ ngồi xuống tấm ghế đá mát lạnh, mắt nhìn những con cá vàng tung tăng bơi lội trong bể, thả lòng mình trong những hoài niệm không bao giờ quên về Người. Tình thương bao la của Bác vẫn dành cho tất cả mọi người, đặc biệt nhất vẫn là các em nhỏ “như búp trên cành”. Chị Babét cũng là một trong những ”cháu bé” ngày nào đã được sưởi ấm bằng muôn vàn tình thương yêu của Bác”.