Các Nghị quyết của Bộ Chính trị mới ban hành gồm: Nghị quyết 57; Nghị quyết 59; Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68 được xem là “bộ tứ trụ cột” đang được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân triển khai trong thực tiễn. Dư luận đánh giá rất cao việc Đảng ban hành các nghị quyết này và kỳ vọng vào sự phát triển của đất nước. Dù vậy, vẫn có những tiếng nói thiếu hiểu biết, xuyên tạc quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta, phủ nhận những kết quả mà đất nước đã và đang đạt được.
Gần 40 năm đổi mới toàn diện, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, khoa học và công nghệ tiếp tục có những bước tiến quan trọng về mọi mặt, đóng góp thiết thực cho sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân và củng cố quốc phòng, an ninh quốc gia. Chỉ tính riêng trong năm 2024, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo của Việt Nam xếp hạng thứ 56 trong bảng xếp hạng Chỉ số hệ sinh thái khởi nghiệp toàn cầu. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam liên tục được cải thiện, tăng từ vị trí 59 (năm 2016) lên vị trí 44 năm 2024. Kết quả GII 2024 của Việt Nam có ba chỉ số đứng đầu thế giới, trong đó lần đầu tiên có Chỉ số xuất khẩu hàng hóa sáng tạo. Tổng chi ngân sách hằng năm của quốc gia cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia tăng dần theo yêu cầu phát triển. Những thành tựu đó đã minh chứng, luận điệu của các thế lực thù địch là giả dối, bịa đặt, lộ rõ bản chất phản động.
Việc Nghị quyết 57 ra đời trên nền tảng khoa học, công nghệ đất nước đang trên đà phát triển là bệ đỡ, bệ phóng và là hành lang pháp lý rất cần thiết để phát huy cao nhất, mạnh nhất sự phát triển trong lĩnh vực này. Và chỉ khi khoa học, công nghệ phát triển thì đất nước mới thực sự phát triển, khẳng định sự vượt trội của mình.
Sự ra đời của Nghị quyết 59 với quan điểm xuyên suốt là: Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, làm chủ thể sáng tạo. Thực tiễn gần 35 năm thực hiện “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, Đảng ta đã xác định nhiều mối quan hệ đan xen nhau rất phức tạp đòi hỏi phải xử lý đúng đắn, hiệu quả, trong đó có mối quan hệ “giữa độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”. Hội nhập khu vực và hội nhập toàn cầu đã góp phần cải thiện đáng kể tiềm lực trong nước, nâng cao vị thế địa chiến lược của Việt Nam trong khu vực và trên phạm vi toàn cầu.
Thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta đã rất quan tâm, cố gắng, nỗ lực, ưu tiên xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Điển hình như: Chỉ trong giai đoạn từ năm 2019 đến cuối năm 2022, Quốc hội đã thông qua 49 Luật, trong đó có nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân như: Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021), Bộ luật Lao động năm 2019, Luật Cư trú năm 2020… Riêng năm 2023, Quốc hội đã thông qua 16 Luật trong đó có những dự án luật quan trọng với nhiều nội dung khó, phức tạp như: Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản… Để đáp ứng yêu cầu cuộc tinh gọn bộ máy, Quốc hội đang tiếp tục bổ sung, hoàn thiện để thông qua việc sửa đổi Hiến pháp, sửa đổi luật đáp ứng yêu cầu phát triển. Các quyền con người, quyền công dân theo hiến định tiếp tục được cụ thể hóa bằng pháp luật và thực hiện tốt hơn trên thực tế. Trên phương diện quốc tế, Việt Nam đã tích cực, chủ động tham gia các cơ chế toàn cầu và khu vực về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập các công ước quốc tế chủ chốt ở mọi lĩnh vực.
Kinh nghiệm thực tiễn ở cả Việt Nam và các nước cho thấy, hoàn thiện thể chế, pháp luật chính là động lực mạnh mẽ cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước; trở thành lợi thế cạnh tranh, là nền tảng vững chắc cho phát triển. Những kết quả trên là minh chứng sinh động để phủ nhận, phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch khi họ bịa đặt “Pháp luật Việt Nam, một bước lùi đối với tiến bộ xã hội”.
Chính trên cơ sở sự thay đổi, phát triển nhận thức đúng đắn, kịp thời về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân với những cơ chế, chính sách kinh tế nhiều thành phần, kinh tế thị trường định hướng XHCN đã tạo những điều kiện, tiền đề để kinh tế tư nhân phát triển, không ngừng lớn mạnh và trở thành một trong những nhân tố quan trọng cho sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế. Cũng chỉ sau thời gian ngắn Nghị quyết 68 được ban hành, hàng loạt doanh nghiệp tư nhân lớn, nhỏ đã mạnh dạn đề xuất, đầu tư phát triển vào nhiều lĩnh vực mà điển hình nhất là lĩnh vực đầu tư hạ tầng giao thông, đường cao tốc, sân bay, bến cảng bằng chính nguồn vốn của họ và tự huy động mà không dùng ngân sách nhà nước trên nền tảng pháp lý vận hành mà Nghị quyết 68 xác định.
Cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định, 4 Nghị quyết-“bộ tứ trụ cột” là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn cách mạng nước ta vào thời điểm hiện tại, cũng là minh chứng phản bác những quan điểm sai trái, phản động, xuyên tạc về tinh thần của “bộ tứ trụ cột”, làm chệch định hướng XHCN, chệch quỹ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì vậy, cán bộ, đảng viên và nhân dân cần tỉnh táo nhận diện và kiên quyết đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch này, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN Việt Nam nói chung và với đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước nói riêng.
Bích Đào