Một là, phán đoán chính xác âm mưu và thủ đoạn của Mỹ, chủ động xây dựng kế hoạch tổ chức Chiến dịch chu đáo.
Chiến thắng vang dội của Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972, trước hết cũng từ sự nhìn nhận, phân tích, đánh giá đúng đắn của Trung ương Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại về âm mưu, thủ đoạn của Mỹ, về đối tượng và khu vực tác chiến, trên cơ sở đó chỉ đạo các lực lượng có liên quan chủ động xây dựng kế hoạch tác chiến phù hợp, không để bị động, bất ngờ.
Để cứu vãn nguy cơ sụp đổ hoàn toàn của Chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, ngày 14/12/1972, Tổng thống Mỹ R.Nixon đã ra lệnh bí mật chuẩn bị một kế hoạch tập kích đường không chiến lược (mang tên Linebacker II) bằng B-52 vào Hà Nội, Hải Phòng và một số mục tiêu quan trọng khác trên miền Bắc Việt Nam. Cuộc tập kích chiến lược này nhằm huỷ diệt, làm tê liệt ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân Việt Nam, buộc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải khuất phục và chấp nhận những điều kiện mà Mỹ đưa ra tại Hội nghị Paris, hòng cứu vãn tình thế và kéo dài sự tồn tại của chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu ở miền Nam. Với một kế hoạch được chuẩn bị kỹ càng cùng với sự áp đảo về vũ khí, khí tài, Tổng thống R.Nixon và tập đoàn hiếu chiến của Mỹ khi đó tin chắc rằng, thông qua đòn đánh có tính chất huỷ diệt tiềm lực kinh tế, quốc phòng miền Bắc, uy lực và sức mạnh quân sự Hoa Kỳ sẽ nhanh chóng khuất phục “những nhà lãnh đạo Bắc Việt”, khiến Hà Nội “không còn cách lựa chọn nào khác là phải chấp nhận các yêu cầu”.
Ngay từ năm 1966, khi máy bay B-52 lần đầu tiên ném bom khu vực đèo Mụ Giạ (Quảng Bình), mở đầu việc đánh phá của đế quốc Mỹ ở miền Bắc Việt Nam, Trung ương Đảng và Bác Hồ đã nhận định dứt khoát Mỹ sẽ sử dụng B-52 vào đánh Hà Nội và chỉ thị cho Bộ Tổng Tư lệnh và Quân chủng Phòng không – Không quân (PK-KQ) phải tổ chức nghiên cứu ngay cách đánh B-52, phải bắn rơi bằng được B-52 của Mỹ trên miền Bắc.
Thực hiện sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Tổng tham mưu, tháng 5/1966, Quân chủng PK-KQ đã tổ chức cho trung đoàn tên lửa 238 cơ động vào Vĩnh Linh, nghiên cứu cách đánh B-52. Ngày 17/9/1967, tại trận địa T5, Nông trường Quyết Thắng (Vĩnh Linh), tiểu đoàn 84, trung đoàn 238 đã bắn rơi chiếc máy bay B-52 đầu tiên. Từ đó, chúng ta luôn luôn duy trì một lực lượng ở chiến trường để đánh B-52, với phương châm là vừa đánh địch, vừa nghiên cứu địch.
Cuối năm 1967, khi làm việc với Bộ Tư lệnh Quân chủng PK-KQ, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua. Phải dự kiến trước mọi tình huống, càng sớm càng tốt, để có thời gian mà suy nghĩ, chuẩn bị. Nhớ là trước khi thua ở Triều Tiên, đế quốc Mỹ đã hủy diệt Bình Nhưỡng. Ở Việt Nam, Mỹ sẽ nhất định thua, nhưng nó chỉ chịu thua trên bầu trời Hà Nội”.
Thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên, đặc biệt là sự nhắc nhở thường xuyên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ đầu năm 1968, Bộ Tư lệnh Quân chủng PK-KQ bắt tay vào xây dựng kế hoạch đánh trả một cuộc tập kích đường không chiến lược bằng máy bay B-52 của đế quốc Mỹ vào Hà Nội trong vòng 5 năm tới… Đến ngày 24/11/1972, Tổng tham mưu trưởng nghe báo cáo lần cuối của Bộ Tư lệnh Quân chủng PK-KQ về Kế hoạch chiến dịch phòng không đánh trả cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B-52 vào Hà Nội, Hải Phòng, phê chuẩn Kế hoạch và lệnh cho Bộ Tư lệnh Quân chủng hoàn thành mọi công tác chuẩn bị chiến đấu xong trước ngày 3/12/1972.
Đến ngày 4/12/1972, về cơ bản quân và dân ta ở phía Bắc vĩ tuyến 20 đã chuẩn bị xong và sẵn sàng đối phó với địch. Các lực lượng PK-KQ trong tư thế sẵn sàng chiến đấu cao.
Hai là, sáng tạo trong tổ chức lực lượng và thế trận phòng không ba thứ quân, tạo thành lưới lửa nhiều tầng, nhiều tuyến, trong đó lấy lực lượng Quân chủng PK-KQ làm nòng cốt.
Để đối phó với âm mưu, thủ đoạn của Mỹ khi sử dụng lực lượng “pháo đài bay B-52” – lực lượng không quan mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ, ngoài việc phán đoán chính xác âm mưu thủ đoạn của địch, chủ động xây dựng kế hoạch tác chiến, đòi hỏi phải có nghệ thuật tổ chức lực lượng và thế trận khoa học, vững chắc.
Thực tiễn, khi cuộc đụng đầu lịch sử 12 ngày đêm bắt đầu, đế quốc Mỹ đã vấp phải một thế trận phòng không vững chắc, một lưới lửa dày đặc, nhiều tầng, nhiều nấc, hoạt động nhịp nhàng, có thể đánh địch liên tục từ xa đến gần, đánh địch ở mọi tầng cao, đánh từ nhiều phía, đánh trực diện, đánh từ sau, từ bên sườn, gây cho địch lúng túng không thể cơ động tránh được lưới lửa phòng không của quân và dân miền Bắc. Trong đó phải kể đến vai trò của các lực lượng sau:
Bộ đội radar: Là lực lượng trinh sát, quản lý vùng trời đã phát hiện chính xác địch trên không, thông báo, báo động kịp thời cho các lực lượng PK-KQ chuyển cấp sẵn sàng chiến đấu và cho nhân dân kịp thời sơ tán, trú ẩn. Cung cấp tình báo cho các đơn vị hỏa lực, dẫn đường cho không quân đánh địch trên không. Đã hình thành hệ thống mạng radar, quan sát mắt, tai nghe cho các hướng. Ngay đêm 18/12 các kíp trắc thủ của Đại đội 45, 46, 41 thuộc Trung đoàn 291 (Đoàn radar Ba Bể) đã phát hiện và khẳng định chính xác B-52 vào đánh Hà Nội (trước 29 phút) giúp Bộ Tư lệnh Quân chủng PK-KQ báo động chuyển cấp chiến đấu, tạo điều kiện cho Tiểu đoàn 78, Trung đoàn 257 (Đoàn tên lửa Cờ Đỏ) phóng quả đạn đầu tiên mở màn cho chiến dịch vào lúc 19 giờ 44 phút.
Biên đội Mig-21 rút kinh nghiệm sau trận bắn rơi F-4 yểm hộ cho các lực lượng đánh B-52, ngày 27/12/1972. (Ảnh: qdnd.vn)
Bộ đội Không quân tiêm kích: Là lực lượng hỏa lực có khả năng đột kích mạnh, cơ động cao, tầm hoạt động xa, đánh địch từ bất cứ hướng nào tới. Có khả năng chi viện cho các khu vực tác chiến mà ở đó lực lượng phòng không mỏng. Theo nhận định của Lầu Năm Góc, chỉ có máy bay tiêm kích của ta mới có khả năng đánh được B-52. Vì vậy, ngay đêm đầu tiên (18/12) các loại máy bay chiến thuật của Mỹ đã tập trung đánh phá toàn bộ các sân bay nhằm vô hiệu hóa khả năng cất cánh của không quân Việt Nam. Nắm bắt ý đồ của Mỹ, các lực lượng không quân của ta đã chủ động cơ động sơ tán bố trí máy bay ở các sân bay dã chiến và đã thực hiện bất ngờ xuất kích 24 chiếc đánh chặn địch từ xa khi đội hình của chúng chưa kịp triển khai. Lực lượng không quân địch bị không quân ta đánh “bóc vỏ”, đánh tiêu hao, làm cho đội hình bị phá vỡ, phân tán, chỉ huy rối loạn do đó cường độ nhiễu đội hình B-52 giảm, tạo điều kiện cho tên lửa của ta tiêu diệt. Trong cả chiến dịch, không quân ta đã bắn rơi 7 máy bay các loại, trong đó có 2 chiếc B-52.
Bộ đội Tên lửa Phòng không: Là lực lượng chủ yếu đánh B-52 trong chiến dịch 12 ngày đêm. Tuy lực lượng tên lửa ở miền Bắc có hạn nhưng đã được tập trung bố trí ở những hướng quan trọng. Khi biết rõ địch chủ yếu dùng B-52 đánh đêm, ta sử dụng pháo phòng không và không quân tiêm kích tập trung đánh vào ban ngày nhằm bảo vệ các mục tiêu và các trận địa tên lửa. Các đơn vị tên lửa được dành ưu tiên chủ yếu đánh ban đêm. Ngay đêm 18/12 khi Mỹ bắt đầu mở chiến dịch tập kích đường không, các đơn vị tên lửa đã đánh trận mở màn chiến dịch và đã đánh trúng đội hình B-52, lập công xuất sắc. Liên tiếp trong cả chiến dịch, bộ đội tên lửa đã bắn rơi 29 chiếc B-52 trong tổng số 34 chiếc bị quân và dân ta bắn rơi, có 18 chiếc rơi tại chỗ.
Bộ đội Pháo Phòng không: Là lực lượng đông đảo và rộng khắp của các lực lượng phòng không 3 thứ quân với nhiệm vụ bắn máy bay bay thấp, bay bằng, bổ nhào ném bom ở cấp độ cao và trung bình. Trong chiến dịch 12 ngày đêm, bộ đội pháo phòng không đã phát huy cao độ khả năng hỏa lực tập trung đánh các loại máy bay chiến thuật của Mỹ khi ban ngày chúng đánh phá các sân bay, trận địa tên lửa và các mục tiêu quan trọng. Còn ban đêm pháo phòng không trực tiếp tham gia đánh các máy bay chiến thuật bay thấp, bay gây nhiễu hộ tống trong đội hình B-52. Đồng thời sử dụng cả pháo 100mm đánh B-52. Trong toàn bộ chiến dịch, bộ đội pháo phòng không bắn rơi 29 máy bay chiến thuật các loại, pháo 100mm bắn rơi 3 máy bay B-52.
Phân đội 12,7mm tự vệ nhà máy dệt kim Đông Xuân thường xuyên huấn luyện sẵn sàng đánh máy bay Mỹ, tháng 4/1972. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Lực lượng phòng không của bộ đội địa phương và dân quân tự vệ: Đây là lực lượng tại chỗ rộng khắp, đánh máy bay địch bay thấp, hoạt động tốp nhỏ, chiếc lẻ, trực tiếp bảo vệ các mục tiêu quan trọng của địa phương. Ngoài nhiệm vụ tập trung bắn máy bay, lực lượng phòng không của bộ đội địa phương và dân quân tự vệ còn là lực lượng báo động phòng không nhân dân, chỉ đạo và tổ chức sơ tán phòng tránh, bắt giặc lái nhảy dù. Trong 12 ngày đêm của chiến dịch, các đơn vị súng máy phòng không được bố trí đón lõng bắn máy bay bay thấp. Ta đã tổ chức 364 phân đội dân quân tự vệ với 1.428 khẩu pháo và súng máy phòng không các loại (32 khẩu pháo 100mm, 16 khẩu 85mm, tổ chức trên 100 trận địa pháo phòng không, 6 đài quan sát xa, 414 đài quan sát bổ trợ) tạo thành thế trận phòng không nhân dân rộng khắp. Trong chiến dịch, pháo phòng không địa phương đã bắn rơi 9 máy bay chiến thuật của Mỹ.
Ngoài ra phải kể đến lực lượng dân quân tự vệ và nhân dân các địa phương, tuy không trực tiếp tham gia bắn máy bay nhưng đã tham gia các nhiệm vụ hết sức quan trọng như san lấp sửa chữa sân bay, làm trận địa tên lửa, cao xạ, radar, ngụy trang cất giữ vũ khí, khí tài…
Đó là những nét sáng tạo điển hình của nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam trong chiến dịch “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” năm 1972.
GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY
Cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B-52 của không quân Mỹ do chính Tổng thống R.Nixon phát động sau 12 ngày đêm đã bị thất bại thảm hại, với con số tổn thất: 81 máy bay bị bắn rơi, trong đó có 34 chiếc B-52, 5 máy bay F111… Niềm kiêu hãnh của Không lực Hoa Kỳ đã bị sụp đổ sau 12 ngày đêm tham chiến trên bầu trời Hà Nội. Nhà Trắng và lầu Năm Góc nhiều phen chết lặng vì con số máy bay bị bắn rơi quá nhiều, cùng sự tổn thất nặng nề về người lái – nguồn sinh lực cao cấp của quân đội Mỹ.
Thắng lợi của Chiến dịch “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” năm 1972 là kết quả tổng hợp của nhiều nguyên nhân, trong đó không thể không kể đến sự chủ động và sáng tạo về nghệ thuật quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là lần đầu tiên chúng ta tổ chức và thực hiện thành công một chiến dịch phòng không quy mô lớn, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược là “Đánh cho Mỹ cút”, chuẩn bị điều kiện để tiến lên “Đánh cho ngụy nhào”, kết thúc thắng lợi sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước; làm phong phú thêm nghệ thuật chiến dịch nói riêng và nghệ thuật quân sự nói chung của chiến tranh nhân dân Việt Nam.
Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN ngày nay không giống như những gì đã diễn ra trong 50 năm về trước, nhưng bài học về sự chủ động, sáng tạo của Đảng trong đánh giá tình hình, tổ chức lực lượng và thế trận phòng không vững chắc được rút ra từ Chiến dịch “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không” năm 1972 đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị, cần được kế thừa và phát huy trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Cụ thể là:
Thứ nhất, phải luôn luôn đề cao cảnh giác, chủ động nắm chắc tình hình, nhận diện cho đúng âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam, dự báo đúng các tình huống quốc phòng, an ninh có thể xảy ra để có đối sách xử lý đúng đắn, không để đất nước bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững sự ổn định chính trị xã hội của đất nước để tạo nên “cái cốt” vật chất và tinh thần của sức mạnh chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững chắc, trong đó phải đặc biệt chú trọng tăng cường các nguồn lực đầu tư, nâng cao tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước; coi trọng xây dựng tiềm lực chính trị – tinh thần, xây dựng thế trận lòng dân; xây dựng các tỉnh, thành phố thành các khu vực phòng thủ vững chắc, toàn diện, xây dựng hệ thống các công trình quốc phòng, an ninh ở các địa bàn chiến lược, các khu kinh tế quốc phòng ở các địa bàn xung yếu về quốc phòng, an ninh; phát tiển công nghiệp quốc phòng, an ninh đáp ứng yêu cầu trang bị, vũ khí ngày càng cao của các lực lượng vũ trang; hoàn thiện các phương án bảo vệ an ninh quốc gia, chủ quyền lãnh thổ, biển đảo trong mọi tình huống, không để bị động, bất ngờ…
Chiến sĩ Sư đoàn 367 hôm nay tiếp bước truyền thống của Quân chủng PK-KQ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu. (Ảnh: Tư liệu)
Thứ hai, chăm lo xây dựng, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bởi đó là vấn đề chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt, là nhân tố bảo đảm sự sống còn của dân tộc Việt Nam trong quá trình phát triển và là cốt lõi của sức mạnh tổng hợp trong chiến tranh nhân dân Việt Nam. Do đó, cần nắm vững và vận dụng sáng tạo chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng theo nguyên tắc lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vì lợi ích chung của quốc gia, dân tộc làm điểm tương đồng; đồng thời, đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân văn để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Phải tiếp tục hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả cơ chế, chính sách phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề hệ trọng của đất nước, giải quyết hài hòa lợi ích của các thành viên trong xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc, tôn giáo, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Kiên quyết chống mọi biểu hiện chia rẽ, cục bộ, địa phương. Đặc biệt, cần phải nắm chắc và thực hiện tốt nội dung cơ bản, vấn đề mấu chốt của xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trong giai đoạn mới là xây dựng “thế trận lòng dân” để lấy đó làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc.
Thứ ba, tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó có một số quân, binh chủng, lĩnh vực đi ngay vào hiện đại, làm tốt vai trò là lực lượng nòng cốt trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân vững mạnh về chính trị, tuyệt đối trung thành với với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Tăng cường đầu tư để trang bị vũ khí, khí tài ngày càng tốt hơn cho các lực lượng vũ trang. Điều chỉnh, kiện toàn tổ chức các lực lượng vũ trang theo hướng tinh gọn, cơ động, có chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao. Nâng cao chất lượng huấn luyện sát với thực tế chiến đấu trong chiến tranh hiện đại, công nghệ cao./.
Đại tá, PGS. TS. NGUYỄN VĂN SỰ
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng