Nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1911 – 2013) chúng ta đều nhận thấy, ông là một nhân vật rất đặc biệt, xuất chúng, là một vĩ nhân. Sự đặc biệt này thể hiện rất rõ trong toàn bộ cuộc đời xuyên qua hai thế kỷ XX và thế kỷ XXI của ông.
Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp có ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần, lối sống, suy nghĩ và hành động của đông đảo người dân Việt Nam, đến chiều hướng phát triển của đất nước. Có thể nêu lên những điểm đặc biệt về ông như sau:
Một là, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một trong những vị lãnh đạo Đảng, Chính phủ, quân đội có tuổi thọ cao nhất: 103 tuổi.
Mặc dù rất bận rộn khi còn làm việc cũng như khi đã nghỉ hưu (năm 1991), Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn có ý thức cân bằng giữa công việc và nghỉ ngơi, thư giãn, giữ cho tinh thần thanh thản, thư thái. Đại tướng thường ngồi thiền, đánh đàn dương cầm, đọc sách, chăm chút cây hoa trong vườn; ăn, nghỉ điều độ, nên luôn minh mẫn, khỏe mạnh cho dù tuổi ngày càng cao. Việc giữ cho tâm hồn luôn an nhiên, tự tại, làm chủ mọi công việc và sinh hoạt đời thường, luôn động não suy nghĩ…, đã giúp cho Đại tướng sống đại thọ: 103 tuổi.
Trong số những vị tướng chỉ huy Quân đội nhân dân Việt Nam, duy chỉ có Đại tướng Võ Nguyên Giáp được quân đội duy trì một văn phòng giúp việc với các sĩ quan cao cấp đương chức làm thư ký khi Đại tướng đã về nghỉ hưu. Chỉ sau khi Đại tướng qua đời, văn phòng mới kết thúc sau mấy chục năm hoạt động. Đây là một minh chứng cho thấy khả năng làm việc bền bỉ và cống hiến của Đại tướng đối với quân đội, đất nước. Ông là một trong những nhà lãnh đạo có thời gian tham gia hoạt động, cống hiến cho Đảng, cho cách mạng, cho nhân dân, cho đất nước dài nhất.
Hai là, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh giao phó những trọng trách to lớn khi tuổi còn trẻ và đã hoàn thành xuất sắc chức trách được giao.
Cuối năm 1941, sau khi đồng chí Phùng Chí Kiên, Ủy viên Trung ương Đảng, người được Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giao phụ trách công tác quân sự của Đảng, đồng thời làm Tổng chỉ huy Khu căn cứ Bắc Sơn, bị địch phục kích, sau đó bị sát hại, Võ Nguyên Giáp được tổ chức cử thay Phùng Chí Kiên phụ trách công tác quân sự của Đảng và Mặt trận Việt Minh. Lúc đó, ông tròn 30 tuổi. Từ năm 1942, ông được giao phụ trách tổ chức các đội vũ trang tuyên truyền xung phong mở con đường hành lang vận động quần chúng, gây dựng cơ sở cách mạng, “Nam tiến” từ căn cứ địa Cao Bằng xuống Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, nối thông với Khu căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai. Cuối năm 1944, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao tổ chức thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Đây là đơn vị chủ lực, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được lấy làm ngày kỷ niệm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam hằng năm (22-12-1944). Ngày 15-5-1945, theo quyết nghị của Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ họp tại Hiệp Hòa, Bắc Giang (họp tháng 4-1945), lễ thống nhất Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Cứu quốc quân và các đội vũ trang khác thành Việt Nam Giải phóng quân được tổ chức tại đình làng Quặng, xã Định Biên Thượng, Định Hóa, Thái Nguyên. Võ Nguyên Giáp được giao làm Tư lệnh Việt Nam giải phóng quân. Đây là lực lượng vũ trang chính quy đã hỗ trợ cho quần chúng nhân dân các địa phương tiến hành Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trong cả nước vào tháng 8-1945. Trước khi cuộc Tổng khởi nghĩa diễn ra, ông được Quốc dân đại hội họp ở Tân Trào, Sơn Dương, Tuyên Quang bầu vào Ủy ban Dân tộc giải phóng.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công năm 1945, Ủy ban Dân tộc giải phóng cải tổ thành Chính phủ lâm thời, ông được giao làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Lúc này, ông mới 34 tuổi. Sau cuộc Tổng tuyển cử (ngày 6-1-1946) bầu Quốc hội khoá I, ngày 2-3-1946, tại Nhà hát Lớn, Hà Nội, Quốc hội họp kỳ đầu tiên. Tại kỳ họp này, theo sự phân công của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhằm thực hiện đại đoàn kết dân tộc, vận động người có tài năng ra gánh vác công việc của đất nước, ông thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ, dành chức vụ này cho cụ Huỳnh Thúc Kháng, một nhân sĩ yêu nước nổi tiếng, không tham gia đảng phái nào. Để góp phần chăm lo công việc quân sự, xây dựng lực lượng vũ trang và vạch kế hoạch tác chiến, đề phòng trường hợp nổ ra chiến tranh, Quốc hội đã thành lập tổ chức Quân sự ủy viên hội (gọi tắt là Quân ủy hội). Ông được bầu giữ chức Chủ tịch Quân ủy hội.
Tháng 11-1946, ông được cử làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Chỉ huy Quân đội quốc gia. Lúc này ông mới 35 tuổi. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ (19-12-1946), dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ông đã lãnh đạo, chỉ huy quân đội triển khai cuộc chiến tranh nhân dân, vừa chiến đấu, vừa xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân từng bước vững mạnh. Ghi nhận công lao, đóng góp và để động viên ông tiếp tục cố gắng thực hiện trọng trách được giao, ngày 20-1-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh phong hàm Đại tướng cho ông và phong hàm Trung tướng, Thiếu tướng cho một số cán bộ quân đội. Lúc này ông mới 37 tuổi, là người được phong cấp hàm Đại tướng đầu tiên của Quân đội ta. Sau này, có nhà báo nước ngoài phỏng vấn Chủ tịch Hồ Chí Minh: Dựa vào căn cứ và tiêu chí nào để phong cấp hàm Đại tướng cho Võ Nguyên Giáp, Người trả lời: Đánh thắng đại tá thì phong đại tá, đánh thắng thiếu tướng thì phong thiếu tướng, đánh thắng trung tướng thì phong trung tướng, đánh thắng đại tướng thì phong đại tướng(1).
Ba là, Đại tướng Võ Nguyên Giáp dành phần lớn cuộc đời hoạt động của mình gắn bó với quân đội.
Nếu tính từ ngày ông tổ chức thành lập, phụ trách Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (tháng 12-1944) đến ngày ông thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng – Tổng tư lệnh Quân đội (cuối năm 1979), ông đã có 35 năm ở trong quân đội với những chức vụ và cấp hàm cao nhất. Ông là người duy nhất đảm đương các chức danh, chức vụ cao nhất và liên tục về Đảng, chính quyền trong quân đội. Đó là chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng – Tổng Chỉ huy (đến tháng 3-1949 đổi là Tổng Tư lệnh); Tổng Chính ủy, Bí thư Trung ương Quân ủy, Tổng Quân ủy (đến tháng 1-1961 đổi là Quân ủy Trung ương) trong cả hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Các đồng chí đảm nhiệm chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng sau ông không đảm nhiệm chức vụ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam và chỉ là Phó Bí thư Quân ủy Trung ương (có một thời gian gọi là Đảng ủy Quân sự Trung ương).
Là người đảm trách công tác quân sự, quốc phòng trong quân đội hàng chục năm, ông có công lao to lớn trong xây dựng quân đội lớn mạnh, chính quy, tinh nhuệ; xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân; xây dựng Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần và các cục, cơ quan trực thuộc; xây dựng các binh chủng, quân chủng, quân khu, quân đoàn, binh đoàn, học viện, viện nghiên cứu, nhà trường, Bộ đội Biên phòng. Đặc biệt, ông trực tiếp tham mưu với Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng hai tuyến vận tải chiến lược trên bộ và trên biển, chi viện đạt hiệu quả to lớn cho cách mạng miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đó là tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn (còn có tên gọi là Đoàn 559, Đường Hồ Chí Minh) và tuyến vận tải 759 trên biển (còn gọi là Đường Hồ Chí Minh trên biển).
Không chỉ là người lãnh đạo, chỉ huy quân đội cao nhất, ông còn là vị tướng trực tiếp cầm quân ra trận. Ông tham gia làm Chỉ huy trưởng (Tư lệnh) và Bí thư Đảng ủy tất cả các chiến dịch lớn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Đó là Chiến dịch phản công Việt Bắc (từ 7-10 đến 19-12-1947); Chiến dịch Biên giới (từ 16-9 đến 14-10-1950); Chiến dịch Trung Du (còn gọi là Chiến dịch Trần Hưng Đạo, từ tháng 12-1950 đến tháng 1-1951); Chiến dịch Đường 18 (còn gọi là Chiến dịch Hoàng Hoa Thám, từ 23-3-1951 đến 5-4-1952); Chiến dịch Hà Nam Ninh (còn gọi là Chiến dịch Quang Trung, từ 28-5 đến 20-6-1951); Chiến dịch Hòa Bình (từ 10-12-1951 đến 25-2-1952); Chiến dịch Tây Bắc (từ 14-10 đến 10-12-1952); Chiến dịch Thượng Lào (từ 12-4 đến 6-5-1953) và Chiến dịch Điện Biên Phủ (từ 13-3 đến 7-5-1954).
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tuy không trực tiếp làm tư lệnh các chiến dịch quân sự, nhưng với vai trò, vị trí của mình, ông đã trực tiếp chỉ đạo các chiến dịch, cuộc tiến công chiến lược, Tổng tiến công và nổi dậy ở miền Nam và triển khai thế trận chiến tranh nhân dân đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc, bảo vệ miền Bắc, chi viện đắc lực cho miền Nam chiến đấu. Những công lao, đóng góp của ông trong xây dựng quân đội lớn mạnh, trưởng thành được cán bộ, chiến sĩ ghi nhận, đánh giá cao và tôn vinh là “Người Anh Cả của Quân đội nhân dân Việt Nam”.
Bốn là, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là vị tướng đã đương đầu và đánh thắng tất cả các thế lực thực dân, phát-xít, đế quốc xâm lược Việt Nam.
Là người không được đào tạo cơ bản về quân sự nhưng Đại tướng Võ Nguyên Giáp lại có tài năng thiên bẩm về lĩnh vực này. Là người ham thích lịch sử, lại là thầy giáo dạy môn lịch sử ở Trường tư thục Thăng Long, ông đã tích lũy nhiều tri thức về lịch sử, nhất là về lịch sử quân sự trong nước và trên thế giới, có hiểu biết sâu sắc về nhiều vị tướng tài quân sự của Việt Nam, như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung – Nguyễn Huệ… và của thế giới, như: Napoleon Bonaparte (Pháp), M. Kutuzov (Nga). Ông đã kế thừa xuất sắc, vận dụng sáng tạo truyền thống chống giặc ngoại xâm oai hùng của dân tộc; được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục, rèn luyện, được các cán bộ, chiến sĩ dưới quyền và nhân dân đồng lòng, giúp đỡ, ủng hộ, che chở, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã góp phần xây dựng và triển khai thực hiện thắng lợi học thuyết về chiến tranh nhân dân, học thuyết quân sự Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Đó chính là cẩm nang quân sự độc đáo, là cơ sở vững chắc bảo đảm cho chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Năm là, Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chỉ là nhà quân sự kiệt xuất, mà còn là nhà chiến lược, là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu về quân sự, chính trị, thân thế, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ đầu những năm 1940, ông đã tham gia biên soạn các bài giảng và lên lớp cho các lớp huấn luyện quân chính. Các tài liệu đó sau này được tập hợp in thành cuốn “Con đường giải phóng”. Ông biên soạn cuốn sách “Công tác chính trị trong quân đội cách mạng”. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ông viết các cuốn: “Chiến tranh nhân dân, Quân đội nhân dân” (năm 1961); “Nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân” (năm 1970); “Mấy bài giảng về đường lối quân sự của Đảng” (năm 1974). Đặc biệt, Tổng tập hồi ký, tập hợp sáu cuốn sách của ông gồm: “Từ nhân dân mà ra”; “Những năm tháng không thể nào quên”; “Chiến đấu trong vòng vây”; “Đường tới Điện Biên Phủ”; “Điện Biên Phủ – điểm hẹn lịch sử”; “Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng”, được coi là bộ biên niên sử qua các thời kỳ chiến tranh cách mạng Việt Nam.
Là học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một trong những lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội có nhiều thời gian nhất được sống và làm việc bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, được Người giáo dục và rèn luyện. Đại tướng cũng là một trong những người chịu nhiều ảnh hưởng nhất và học hỏi được nhiều điều về tư tưởng, ý chí, phong cách, đạo đức, lối sống của Người. Chính vì thế, ông đã có nhiều bài viết sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông là Chủ nhiệm Đề tài cấp Nhà nước nghiên cứu về Hồ Chí Minh, tổng kết, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần xây dựng nền móng bộ môn khoa học nghiên cứu về Hồ Chí Minh (Hồ Chí Minh học). Ông đã viết ba chuyên luận: “Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam”; “Thế giới đổi thay – Tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi”; “Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh”. Trong suốt cuộc đời mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn tâm niệm và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Dĩ công vi thượng”, coi đây là phương châm sống; luôn đặt lợi ích chung lên trên hết và đạo của người làm tướng: “Trí – Nhân – Dũng – Tín – Liêm – Trung”, coi đó là kim chỉ nam cho hành động.
Sáu là, ngoài lĩnh vực quân sự, Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn tỏ rõ tài năng xuất sắc trên nhiều lĩnh vực khác.
Sau khi tốt nghiệp cử nhân Luật năm 1937, ông tham gia tích cực vào lĩnh vực báo chí. Ông là biên tập viên nhiều tờ báo của Đảng và báo chí tiến bộ bằng cả tiếng Việt và tiếng Pháp, như Tiếng dân, Lao động (Le Travail), Tiếng nói của chúng ta (Notre Voix), Tiến lên, Tập hợp, Thời báo, Tin tức, Hồn nước… Ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Báo chí Bắc Kỳ của Phong trào Đông Dương đại hội (tháng 4-1937) khi mới 26 tuổi. Cũng trong năm này, ông cùng với đồng chí Trường Chinh xuất bản cuốn “Vấn đề dân cày” dưới các bút danh là Qua Ninh, Vân Đình. Tác phẩm này có giá trị về lý luận, làm cơ sở cho việc chỉ đạo thực tiễn công tác nông dân của Đảng. Tác phẩm này cũng cho thấy sự thấu hiểu sâu sắc của ông về giai cấp đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam lúc đó. Năm 1939, ông trở thành giáo viên dạy lịch sử ở Trường tư thục Thăng Long. Tài năng và nhiệt huyết của một nhà giáo có dịp được bộc lộ.
Sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập vào cuối năm 1945, đầu năm 1946, do hoàn cảnh khó khăn nhiều mặt về kinh tế, xã hội, thù trong, giặc ngoài ra sức chống phá, mặc dù là Bộ trưởng Bộ Nội vụ, nhưng ông còn được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh phân công công tác ngoại giao. Ông đã chủ động gặp Phái bộ Mỹ, gặp đại diện của Pháp ở miền Bắc Đông Dương là Jean Sainteny, gặp các sĩ quan chỉ huy Quân đội Trung Hoa Dân quốc đang ở miền Bắc dưới danh nghĩa Đồng minh vào giải giáp vũ khí quân Nhật đầu hàng… để tìm hiểu, nắm ý đồ, hành động của các đối tượng này, giúp Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra chủ trương, biện pháp đối phó phù hợp, hiệu quả. Khi Trung Hoa Dân quốc thỏa thuận ký với Pháp Hiệp ước Hoa – Pháp (28-2-1946) để cho quân Pháp thay chân ở miền Bắc làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật, ông đã tích cực đàm phán với phía Pháp, góp phần quan trọng vào việc ký Hiệp định Sơ bộ giữa đại diện Chính phủ Việt Nam với đại diện Chính phủ Pháp ngày 6-3-1946. Điều đặc biệt là, ông đã góp phần đàm phán Phụ lục về quân sự kèm theo Hiệp định Sơ bộ, hạn chế số quân Pháp được phép vào miền Bắc, số lượng quân Pháp được đóng ở các địa phương và thời hạn quân Pháp phải rút khỏi miền Bắc…
Cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc kéo dài 30 năm (1945 – 1975) kết thúc thắng lợi. Từ năm 1980, ông thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, tiếp tục đảm đương chức vụ Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Phó Thủ tướng), phụ trách khoa học – kỹ thuật. Trên cương vị mới, ông tiếp tục có những đóng góp quan trọng, chỉ đạo phát triển khoa học – kỹ thuật trong bối cảnh đất nước gặp rất nhiều khó khăn sau chiến tranh. Ông đã chỉ đạo xây dựng chiến lược biển Việt Nam; quan tâm đến vấn đề cải tạo và bảo vệ môi trường, trồng cây, gây rừng, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội ở Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long.
Bảy là, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là vị Đại tướng của nhân dân, được thế giới tôn vinh và kính trọng.
Thật hiếm có một nhân vật nào khi còn sống đã được người dân tôn vinh như một huyền thoại. Tài năng, đạo đức, tác phong của ông trong công việc cũng như trong cuộc sống thường ngày trở thành hình mẫu cho mọi tầng lớp nhân dân học tập, noi theo. Ông luôn tỏ ra khiêm nhường, kiên nhẫn để tìm ra cách giải quyết tốt nhất trong mọi việc. Là người chỉ huy, nắm giữ trọng trách cao nhất, nhưng ông luôn giữ nguyên tắc tập trung dân chủ, nhất là dân chủ quân sự, luôn lắng nghe mọi ý kiến, kể cả ý kiến trái chiều, sau đó suy nghĩ và đưa ra quyết định của mình (trong cuộc họp bất thường của Đảng ủy Mặt trận Điện Biên Phủ sáng ngày 26-1-1954, trước giờ nổ súng mở màn chiến dịch mấy tiếng đồng hồ, trong đó có nhiều tranh luận trái chiều, nhưng với quyết định cuối cùng của ông: Thay đổi phương châm tác chiến chiến dịch từ đánh nhanh, giải quyết nhanh sang đánh chắc, tiến chắc, hoãn nổ súng, kéo quân ra, kéo pháo ra để chuẩn bị thêm, bảo đảm chắc thắng, đã góp phần quyết định vào thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ – là một ví dụ tiêu biểu về dân chủ quân sự). Nếu trong quân đội, ông là Người Anh Cả, là một vị tướng quý từng giọt máu của mỗi chiến sĩ, là Chính ủy của các chính uỷ, Tư lệnh của các tư lệnh, Tướng của các tướng, thì với nhân dân, ông là vị Đại tướng của nhân dân. Sau khi nghỉ công tác, mặc dù vẫn rất bận, nhưng ông luôn dành thời gian đón tiếp các tầng lớp nhân dân trong cả nước đến thăm. Cánh cổng số nhà 30 phố Hoàng Diệu, Hà Nội luôn rộng mở đón các cựu chiến binh, đồng bào các dân tộc vùng căn cứ cách mạng cũ, người dân quê hương Quảng Bình, các đơn vị, cơ quan, các doanh nghiệp, các trí thức, văn nghệ sĩ, thanh niên, các cháu thiếu nhi trên mọi miền đất nước. Với thái độ chân tình, thân mật, gần gũi, giữa ông và khách đến thăm không hề có sự xa cách. Ai cũng muốn được ở gần ông, được ngắm nhìn, bắt tay, nói chuyện với ông thật lâu để thỏa lòng mong ước.
Tin ông qua đời (4-10-2013) gây sự bàng hoàng, tiếc nuối sâu sắc không chỉ đối với người dân Việt Nam mà với cả nhiều người trên thế giới. Lễ tang của ông được Đảng, Nhà nước, quân đội tổ chức trang trọng, là dịp để người dân cả nước thể hiện sự tri ân, nhớ thương một CON NGƯỜI bình dị đã cống hiến cả cuộc đời cho dân, cho nước. Ông đã sống một cuộc đời thật có ý nghĩa, được dân tin, dân yêu và thương nhớ, thể hiện ở những câu đối: “Văn lo vận nước Văn thành Võ – Võ thấu lòng dân Võ hoá Văn”; “Võ công truyền quốc sử – Văn đức quán nhân tâm”. Đại tướng chỉ là danh từ chỉ một cấp bậc trong hệ thống cấp bậc quân sự nói chung, nhưng với ông, người dân khi nói chuyện với nhau, chỉ cần nói hai từ Đại tướng là người đối thoại đã hiểu là nói về Võ Nguyên Giáp. Đây là một điều rất đặc biệt mà không phải ai cũng có được.
Tướng Henry Navarre, nguyên Tổng Chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương, là người đấu trí và đã thua ông trong trận Điện Biên Phủ, sau này viết cuốn hồi ký “Thời điểm của những sự thật” (xuất bản tại Pháp năm 1979, Nhà xuất bản Công an nhân dân tổ chức dịch và phát hành năm 2001), đã viết về một trong những nguyên nhân Pháp thua ở Việt Nam, đại ý: Trong 9 năm chiến tranh (1945 – 1954), trong khi ở Pháp có tới 20 chính phủ thay nhau đổ, Pháp phải thay tới 7 Tổng Chỉ huy và 8 Cao ủy ở Đông Dương, thì phía Việt Nam chỉ có một lãnh tụ chính trị duy nhất là Hồ Chí Minh và chỉ huy quân sự duy nhất là Võ Nguyên Giáp.
Tướng W. Westmoreland, nguyên Tư lệnh quân đội Mỹ trong chiến tranh ở Việt Nam, cho rằng: ông Giáp có tất cả những đức tính của một thống soái quân sự lớn, đó là sự quyết đoán, tính kiên quyết, sức mạnh tinh thần, khả năng tập trung suy nghĩ và hành động, trí thông minh. Nhà sử học quân sự Mỹ Cecil Currey, trong cuốn sách xuất bản năm 1997 “Chiến thắng bằng mọi giá (Thiên tài quân sự Việt Nam: Đại tướng Võ Nguyên Giáp)”, nhận xét: Võ Nguyên Giáp là một thiên tài quân sự. Trong suốt sự nghiệp của mình, ông vạch ra chiến lược, chiến thuật và nghệ thuật quân sự đã giúp đất nước ông chiến thắng những kẻ thù mạnh nhất. Đạo diễn, nhà sản xuất phim người Anh Peter Macdonald đánh giá: “Cuộc đời ông Giáp gắn liền với chiến đấu và chiến thắng, đã làm ông trở thành một trong những thống soái lớn nhất của tất cả các thời đại”
Theo Tạp chí Cộng Sản