Các khách mời tham gia đối thoại trực tuyến. |
Thực tế 20 năm thực hiện Nghị quyết 23, khóa IX cho thấy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố; từng bước thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa các vùng, miền; khơi dậy tiềm năng, sức sáng tạo của Nhân dân đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, cũng nhìn nhận những mặt hạn chế, đặt ra yêu cầu tiếp tục phát huy mạnh mẽ hơn nữa truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.
Để làm rõ về nội dung này, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với 3 khách mời:
– TS Phạm Tất Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Dân vận Trung ương.
– TS Nguyễn Viết Chức, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa – Giáo dục Quốc hội.
– TS Vũ Văn Tiến, Trưởng ban Tuyên giáo, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
TS Phạm Tất Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Dân vận Trung ương. |
PV: Các đồng chí đánh giá như thế nào về những kết quả nổi bật sau 20 năm thực hiện Nghị quyết 23 về “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”?
TS Phạm Tất Thắng: Nghị quyết 23 được ban hành cách đây 20 năm, thời điểm đấy, chúng ta mới có được một số kết quả nhất định về đổi mới phát triển kinh tế – xã hội. Có thể nói, truyền thống đại đoàn kết là truyền thống hết sức quý báu của dân tộc, đã được Đảng ta nhìn nhận, đánh giá và chỉ đạo để phát huy. Trong mỗi một giai đoạn lịch sử, truyền thống này đã được phát huy để tạo thành sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sau 20 năm, kết quả nổi bật nhất là quyền làm chủ của Nhân dân được coi trọng, ngày càng đi vào thực chất, nhất là dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở, tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình. Vai trò của Nhân dân trong tham gia, quyết định chính sách liên quan đến cuộc sống, những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước được phát huy; quyền con người, quyền công dân được đề cao. Người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền chú trọng tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe, giải quyết kiến nghị, bức xúc của Nhân dân. Cùng với đó, đã huy động được sức mạnh tổng thể của cả dân tộc, của các giai tầng xã hội, của đồng bào các dân tộc trên phạm vi cả nước và cả đồng bào ta ở nước ngoài. Kết quả thực hiện Nghị quyết 23 trong 20 năm qua là hết sức toàn diện, căn bản.
TS Nguyễn Viết Chức: Tôi cho rằng thành tựu của đổi mới là thành tựu của đại đoàn kết. Không có đại đoàn kết không có thành tựu ngày hôm nay. Công cuộc xóa đói giảm nghèo, nếu không đoàn kết cùng chia sẻ với nhau làm sao có được thành tựu như ngày hôm nay. Không phải chỉ chúng ta nói, mà thế giới cũng phải khâm phục, “kính nể” Việt Nam về kết quả công cuộc xóa đói giảm nghèo đạt được. Thêm nữa, đại đoàn kết cũng thể hiện tinh thần dân tộc rất rõ ràng. Văn hóa “một cây làm chẳng nên non/ Ba cây chụm lại nên hòn núi cao” đã được phát huy trên mọi phương diện kinh tế – xã hội, an ninh quốc phòng, bởi vì toàn dân tộc đã đoàn kết với nhau, tạo nên sức mạnh vượt qua mọi khó khăn, thách thức.
TS Vũ Văn Tiến: Việc phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã được Đảng ta quan tâm chỉ đạo, khơi gợi trong suốt một chặng đường dài. Nhưng phải khẳng định trong 20 năm qua, Đảng có những bước phát triển vượt bậc. Điều đó được chứng minh qua những kết quả thành tựu kinh tế. Trên phương diện là cơ quan Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có các tổ chức thành viên thì chưa bao giờ khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố vững chắc như ngày nay. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay có 48 tổ chức thành viên, đã bao quát được toàn bộ khối đại đoàn kết, phát huy các lĩnh vực, các ngành nghề thông qua các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Chính vì phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết, cho nên, những năm qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức thành viên đã có những kết quả rất tốt, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế, vào sự phát triển văn hóa – xã hội của cả nước. Điều đó đã được khẳng định và trong Nghị quyết 43 vừa được Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ban hành đã nêu ra những nhiệm vụ rất quan trọng mà Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng các tổ chức chính trị – xã hội sẽ phải làm, sẽ phải phát huy để tăng cường hơn nữa trong thời gian tới.
TS Nguyễn Viết Chức, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa – Giáo dục Quốc hội |
PV: Ngày 24/11/2023 Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Đồng chí Phạm Tất Thắng có nhận định gì về thời điểm Đảng ta ban hành Nghị quyết 43 về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc, thưa đồng chí?
TS Phạm Tất Thắng: Trong 20 năm vừa qua, nội tại của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã có những yếu tố rất mới. Các giai tầng, các tầng lớp trong xã hội đã có những biến chuyển, có sự thay đổi về chất mà cần phải có một chủ trương mới của Đảng để tiếp tục phát huy được sức mạnh của tất cả các cấp, các tầng lớp, các lực lượng trong xã hội vì một mục tiêu chung xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Có thể nói, bối cảnh hiện nay cũng rất khác so với 20 năm trước đây. Như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và nhiều các đồng chí lãnh đạo chủ chốt chúng ta đã nhận định, hiện nay thời cơ thuận lợi đan xen khó khăn, thách thức. Và thậm chí là giai đoạn này, những khó khăn thách thức còn nhiều hơn là những thuận lợi, thời cơ. Trong lịch sử dân tộc của chúng ta, trước mỗi một hoàn cảnh khó khăn cần phải phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói, trong thời kỳ phát triển mới, cần tiếp tục phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo sự đồng thuận xã hội, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng cống hiến, góp phần thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả trên đây, cần phải khẩn trương, nghiêm túc xây dựng, triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chủ trương, chính sách, tiếp tục phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ phát triển mới; bổ sung, hoàn thiện luật pháp, chính sách sát hợp với tình hình mới để phát huy tốt hơn nữa sức mạnh của tất cả các tầng lớp Nhân dân, khơi dậy ý chí và khát vọng phát triển của toàn dân tộc… Chính vì vậy mà Ban chấp hành Trung ương tại Hội nghị lần thứ 8 vừa qua đã ban hành Nghị quyết mới, Nghị quyết số 43 về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
PV: TS Nguyễn Viết Chức có bổ sung thêm nội dung nào không? Xin mời đồng chí!
TS Nguyễn Viết Chức: Đây là những năm tháng bản lề góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Nếu không đoàn kết không thể thành công. Cho nên, giai đoạn này cần thiết phải ban hành Nghị quyết về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dẫu còn nhiều thách thức. Nhưng cơ bản lớn nhất đấy chính là để thực hiện khát vọng của dân tộc, đó là trở thành một nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045. Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vào năm 2045 cũng là năm đánh dấu mốc 100 năm thành lập nước thì càng đòi hỏi phải đẩy mạnh, phát huy cao hơn nữa truyền thống và sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc.
TS Vũ Văn Tiến, Trưởng ban Tuyên giáo, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. |
PV: Nghị quyết 43 đã đề cập đến vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên như thế nào, thưa đồng chí Vũ Văn Tiến?
TS Vũ Văn Tiến: Trong Nghị quyết 43 vừa ban hành thì vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên đã được nhắc tới rất cụ thể và chi tiết, trong đó có việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội phải hoạt động hướng về cơ sở, phải nắm bắt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của Nhân dân, mà như ý của Bác Hồ đã từng nói: “Trong bầu trời không gì quý bằng Nhân dân. Trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân”. Nhân dân là nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Chúng ta nói đến sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đem lại những gì cho đất nước, cho cách mạng thì đã rõ, nhưng người dân phải là đối tượng được quan tâm, phải được đánh giá một cách cụ thể. Muốn vậy thì trong Nghị quyết 43 đã chỉ rõ phải hướng về cơ sở, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của Nhân dân, phải để cho Nhân dân nói, phải tiếp nhận thông tin từ Nhân dân. Hơn bao giờ hết, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là các tổ chức chính trị – xã hội cần phải gần gũi Nhân dân. Hơn nữa phải nói lên tiếng nói của Nhân dân, phản ánh tâm tư, tình cảm Nhân dân một cách kịp thời để làm sao phát huy tốt nhất sức mạnh của Nhân dân như trong Nghị quyết 43 đã nêu.
Các khách mời tại buổi đối thoại trực tuyến. |
PV: Một trong những nhiệm vụ, giải pháp mà Nghị quyết 43 đã đặt ra để thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc đó là phải có cơ chế để thúc đẩy ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế – xã hội và vươn lên thoát nghèo cũng như giảm nghèo bền vững. Tuy nhiên, đây không phải một vấn đề đơn giản, khi thực tế một số nơi chỉ trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Quan điểm của các khách mời như thế nào về vấn đề này?
TS Phạm Tất Thắng: Như chúng ta đã biết, Đảng, Nhà nước ta có rất nhiều chủ trương, chính sách để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng núi mà hiện nay là 3 Chương trình mục tiêu quốc gia gồm: Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030; Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025; Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và an sinh xã hội bền vững giai đoạn 2021 – 2025. Có thể nói, 3 Chương trình mục tiêu quốc gia đều nhằm đến “đích” là nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cũng như hạ tầng xã hội cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi.
Nhưng có một thực tế, đúng là còn một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số còn tâm lý trông chờ vào hỗ trợ từ chính quyền, mà chưa thực sự phát huy được hết tiềm năng, lợi thế của mình, của gia đình, của cộng đồng vào trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội địa phương. Thời gian qua, chúng ta đã có thay đổi chính sách, từ quan điểm là hỗ trợ trực tiếp thì đã chuyển sang chủ trương hỗ trợ tức là tạo sinh kế, tạo động lực để đồng bào dân tộc thiểu số ở địa bàn khó khăn chủ động vươn lên thoát nghèo. Tuy nhiên, đây rõ ràng là một việc khó – đó là thay đổi nhận thức, nên cần phải có quá trình. Chúng ta phải có nhiều giải pháp vừa tuyên truyền, vận động, vừa thay đổi cơ chế chính sách, thay vì hỗ trợ “con cá” bằng việc hỗ trợ “cần câu” để đồng bào chủ động, phát huy tiềm năng, lợi thế vươn lên để thoát nghèo.
TS Nguyễn Viết Chức: Để thúc đẩy ý chí tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số không đơn giản. Nhưng chúng ta đã làm được. Bởi vì chính sách của chúng ta đúng cách, do tư duy trong lãnh đạo, trong định hướng chiến lược có chuyển biến rất lớn. Nói một cách dân dã cho “cần câu”, cho “con cá”, nhưng thực ra thay đổi hẳn tư duy, từ chỗ “đem cho”, “mang đến” thì đã đổi thành tư duy rất mới “cùng nhau xây dựng”. Để làm tốt được chúng ta phải dựa vào truyền thống đại đoàn kết dân tộc, chính chúng ta đã đổi mới tư duy trong cách làm. Có như vậy, chúng ta mới có một niềm tin chắc chắn Nghị quyết 43 trong giai đoạn này sẽ triển khai một cách có hiệu quả trong thực tế./.